20080925

QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VỀ CON NGƯỜI

CHƯƠNG XIV

QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VỀ CON NGƯỜI

Mục tiêu:

Khi học xong chương này anh/chị sẽ nắm được những quan điểm cơ bản của Triết học Mác-Lênin về bản chất con người, quan hệ giữa cá nhân và xã hội, vai trò của quần chúng nhân dân và cá nhân trong lịch sử; từ đó, vận dụng vào nhận thức và hiểu đúng chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước ta trong việc xây dựng con người mới trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay.

Nội dung:

I. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC VỀ CON NGƯỜI TRONG LỊCH SỬ VÀ NHỮNG QUAN NIỆM CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VỀ CON NGƯỜI

1. Một số quan điểm triết học về con người trong lịch sử

a. Quan niệm về con người trong triết học phương Đông

Trong triết học Trung Hoa cổ đại, vấn đề bản tính con người được quan tâm hàng đầu. Nho gia cho rằng bản tính con người là thiện, Pháp gia cho rằng bản tính con người là bất thiện. Đạo gia nhấn mạnh bản tính tự nhiên của con người. Từ sự khác nhau về quan niệm của các trường phái về bản chất con người đã dẫn đến những quan điểm khác nhau về các vấn đề chính trị, đạo đức, xã hội.

Triết học Ấn Độ cổ đại cũng có nhiều quan niệm khác nhau về bản chất con người. Phật giáo khẳng định bản tính vô ngã (không có cái tôi), vô thường (luôn thay đổi) và tính hướng thiện của con người. Các trường phái khác đề cập nhiều tới con người tâm linh.

b. Quan niệm về con người trong triết học phương Tây

Trong triết học phương Tây có hai khuynh hướng cơ bản là duy vật và duy tâm trong quan niệm về con người. Các nhà duy vật từ cổ đại đã khẳng định bản chất vật chất tự nhiên của con người, coi con người cũng như vạn vật trong tự nhiên không có gì là thần bí. Tiêu biểu là quan niệm duy vật theo tinh thần nguyên tử luận của Đêmôcrít về con người. Ông cho nguyên tử là cơ sở để tạo nên thể xác và linh hồn con người.

Đến thời kỳ phục hưng và cận đại con người được đề cập một cách hiện thực hơn mặc dù còn mang tính cơ học. Các nhà duy tâm thì ngược lại, chú trọng hoạt động lý tính của con người. Họ coi con người là sản phẩm của những lực lượng siêu tự nhiên. Ví dụ, như quan niệm của Platôn ở Hy Lạp cổ đại; của Đêcáctơ thời cận đại; Hêghen trong triết học cổ điển đức, v.v. Có thể nói, Phoiơbắc là nhà duy vật lỗi lạc trước Mác có quan điểm duy vật, tiến bộ về con người. Không phải ngẫu nhiên mà triết học của ông được gọi là triết học duy vật nhân bản. Tuy nhiên, Phoiơbắc mới thấy con người có tính loài, con người sinh học, con người tự nhiên. Ông chưa thấy con người xã hội, con người giai cấp, lịch sử. Ông lại sai khi cho tình yêu là yếu tố quyết định con người.

Các nhà triết học phương Tây hiện đại cũng chú ý khai thác nhiều khía cạnh phi lý tính của con người như Phơrớt, triết học hiện sinh của J.Sactơrơ, v.v.

Nhìn chung, các quan niệm trước và ngoài Mác xem xét con người phiến diện, nhìn nhận con người còn trừu tượng, chung chung, phi thực tiễn, phi lịch sử, phi giai cấp.

2. Những quan niệm cơ bản của triết học Mác-Lênin về con người

a. Con người là thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội

Kế thừa những điểm tiến bộ trong lịch sử triết học về con người triết học Mác-Lênin khẳng định con người là sự thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã hội, là một thực thể sinh vật - xã hội.

Mặt sinh vật thể hiện ở chỗ, cũng giống như những động vật khác, con người cũng chịu sự quy định của các quy luật sinh học, của tự nhiên như quy luật đồng hoá và dị hoá, quy luật biến dị và di truyền, v.v. Mặt sinh vật có những tương đồng với động vật cao cấp những đã được người hoá, nhân tính hoá.

Mặt xã hội của con người thể hiện ở chỗ, con người là một loại động vật có tính chất xã hội. Toàn bộ đời sống và hoạt động của con người là do hoàn cảnh xã hội quyết định. Con người chỉ trở thành người đích thực khi sống trong xã hội và có hoạt động xã hội cho mình, cho đồng loại. Trước hết, đó là hoạt động sản xuất vật chất. Chính hoạt động sản xuất vật chất biểu thị bản chất xã hội của con người.

Mặt sinh học (sinh vật) là tiền đề cơ sở cho mặt xã hội của con người. Mặt xã hội chỉ có thể phát triển được trên cơ sở phù hợp với mặt sinh học. Con người là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển con người chịu sự quy định của ba hệ thống quy luật. Quy luật tự nhiên quy định phương diện sinh học của con người. Quy luật tâm lý ý thức quy định sự hình thành tình cảm, niềm tin, khát vọng, v.v của con người, mặc dù chúng được hình thành trên cơ sở nền tảng sinh học của con người. Quy luật xã hội quy định quan hệ xã hội của con người.

b. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội

C.Mác đã xuất phát từ những cá nhân hiện thực cùng với những hoạt động và những điều kiện sinh hoạt vật chất hiện thực của họ. Những điều kiện mà họ thấy có sẵn trong tự nhiên cũng như những điều kiện do chính họ tạo ra. Như vậy, theo C.Mác con người là một động vật có tính chất xã hội với tất cả các nội dung văn hóa, lịch sử của nó. Đây là điểm xuất phát để nghiên cứu con người của triết học mác-xít.

Để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác khẳng định: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”.

Như vậy, bản chất con người không phải là trừu tượng mà là hiện thực, không phải là tự nhiên mà là lịch sử, không phải là cái vốn có trong mỗi cá thể riêng lẻ mà là tổng hòa của toàn bộ quan hệ xã hội. Rõ ràng, con người là con người hiện thực, sống trong những điều kiện lịch sử cụ thể, trong một thời đại xác định. Thông qua các quan hệ xã hội con người bộc lộ bản chất xã hội của mình.

Thừa nhận ý nghĩa quyết định của mặt xã hội đối với việc hình thành bản chất con người, song không có nghĩa là triết học Mác-Lênin coi nhẹ mặt tự nhiên, phủ nhận cái sinh vật trong yếu tố cấu thành bản chất con người. Ở đây, con người với tư cách là sản phẩm của tự nhiên, mặt khác con người là một thực thể xã hội. Sự tác động qua lại giữa mặt sinh vật và mặt xã hội trong con người tạo thành bản chất con người.

Cần phê phán một số quan điểm cực đoan trong mối quan hệ này: phái duy sinh vật và phái duy xã hội hoặc là tách rời hai mặt sinh vật và xã hội trong con người.

c. Con người vừa là chủ thể vừa là sản phẩm của lịch sử

Không có tự nhiên, không có lịch sử - xã hội thì không thể có con người. Con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hoá lâu dài của giới hữu sinh, nhưng con người luôn là chủ thể lịch sử - xã hội. Con người chủ thể lịch sử - xã hội thể hiện ở chỗ:

- Các cá nhân con người chủ động lựa chọn sự tác động của xã hội đối với mình, không chịu khuất phục trước môi trường, điều kiện khách quan, mà chủ động tác động, cải tạo điều kiện khách quan.

- Nhờ hoạt động thực tiễn mà con người cải tạo tự nhiên đồng thời làm nên lịch sử của mình. Do vậy chính con người đã sáng tạo ra lịch sử. Thông qua hoạt động thực tiễn của mình con người thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao.

II. QUAN HỆ GIỮA CÁ NHÂN VÀ XÃ HỘI

1. Khái niệm cá nhân và nhân cách

Cá nhân là một khái niệm chỉ những con người cụ thể như một chỉnh thể đơn nhất bao gồm một hệ thống những đặc điểm cụ thể, khác biệt với những cá nhân khác về cơ chất, tâm lý, trình độ hiểu biết và nhân cách. Khái niệm cá nhân khác khái niệm con người. Con người là khái niệm dùng để chỉ tính phổ biến trong bản chất người của tất cả các cá nhân.

Nhân cách là khái niệm chỉ bản sắc độc đáo, riêng biệt của mỗi cá nhân, là nội dung, trạng thái, tính chất và xu hướng bên trong riêng biệt của mỗi cá nhân. Đó là thế giới của cái "tôi", do tác động tổng hợp của các yếu tố cơ thể và xã hội hết sức riêng biệt tạo nên. Như vậy, nhân cách là khái niệm chỉ sự khác biệt giữa các cá nhân. Cá nhân là phương thức biểu hiện của giống loài còn nhân cách vừa là nội dung, vừa là cách thức biểu hiện của mỗi cá nhân riêng biệt.

Với những đặc điểm riêng về di truyền, sinh lý thần kinh, hoàn cảnh gia đình, hoàn cảnh sống mỗi cá nhân bước vào cuộc sống, tiếp thu và chuyển những giá trị văn hóa của loài người vào trong đầu óc của mình để thực hiện các quá trình so sánh, lọc bỏ, đánh giá, qua đó tạo nên thế giới riêng cho mình. Nhân cách không phải là bẩm sinh, sẵn có mà được hình thành, phát triển phụ thuộc vào ba yếu tố sau:

Thứ nhất, nhân cách phải dựa trên tiền đề sinh học và tư chất di truyền học nhất định của cá nhân từng người.

Thứ hai, môi trường xã hội là yếu tố quyết định sự hình hành và phát triển nhân cách thông qua sự tác động biện chứng giữa gia đình, nhà trường và xã hội với cá nhân.

Thứ ba, hạt nhân của nhân cách là thế giới quan cá nhân, bao gồm các yếu tố như quan điểm, niềm tin, tri thức, định hướng giá trị.

2. Biện chứng giữa cá nhân và xã hội

Xã hội là khái niệm dùng để chỉ cộng đồng các cá nhân trong mối quan hệ biện chứng với nhau, bao gồm cộng đồng tập thể, gia đình, cơ quan, cộng đồng quốc gia, dân tộc và nhân loại.

Quan điểm triết học Mác-Lênin về xã hội xuất phát từ quan điểm lịch sử - cụ thể để xem xét mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội mà nền tảng của nó là mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Đó là mối quan hệ vừa có thống nhất vừa mâu thuẫn.

Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, lực lượng sản xuất thấp kém, để duy trì sự sinh tồn của mình, người nguyên thủy phải tiến hành lao động tập thể trên cơ sở chế độ sở hữu công cộng của cộng đồng. Vì vậy, trong xã hội cộng sản nguyên thủy, chưa có đủ điều kiện để mỗi con người trở thành một cá nhân theo đúng nghĩa của nó, cá nhân bị hòa tan vào cộng đồng.

Trong các xã hội dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, quan hệ giữa cá nhân và xã hội mang tính chất đối kháng dựa trên sự đối kháng về lợi ích giai cấp.

Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng giải phóng con người sâu sắc và triệt để với mục đích cuối cùng của nó là phát triển tối đa năng lực sáng tạo và tự do cho cá nhân.

Cách mạng xã hội chủ nghĩa sẽ tạo ra những điều kiện khách quan để thực hiện hài hòa mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội; tạo ra những điều kiện phát triển tự do cá nhân và đồng thời sự phát triển tự do cá nhân là điều kiện để phát triển tự do của mọi người. Tuy nhiên, cần tránh hai thái cực cực đoan. Một là, chỉ thấy cá nhân không thấy xã hội; đem cá nhân đối lập với xã hội, đòi thực hiện nhu cầu cá nhân chưa phù hợp với điều kiện phát triển của xã hội. Khuynh hướng này dễ dẫn đến chủ nghĩa cá nhân. Hai là, chỉ thấy xã hội mà không thấy cá nhân, hoặc quan niệm sai về lợi thế xã hội, về chủ nghĩa tập thể. Khuynh hướng này dẫn đến chủ nghĩa bình quân, triệt tiêu động lực cá nhân trong phát triển. Cả hai khuynh hướng này đều không đúng, cuối cùng sẽ dẫn đến triệt tiêu sự phát triển của cả xã hội, của cả cá nhân.

III. VAI TRÒ QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN VÀ CÁ NHÂN TRONG LỊCH SỬ

1. Khái niệm quần chúng nhân dân và cá nhân trong lịch sử

a. Khái niệm quần chúng nhân dân

Quần chúng nhân dân bao gồm tất cả những lực lượng giai cấp, những tập đoàn người, những cá nhân thúc đẩy sự phát triển của xã hội, trong đó chủ yếu là quần chúng lao động. Trong quần chúng nhân dân bao gồm: một là, những người lao động sản xuất ra của cải vật chất, tinh thần của xã hội, đây là hạt nhân của quần chúng nhân dân; hai là, những bộ phận dân cư chống lại giai cấp thống trị, bóc lột; ba là, những giai cấp, tầng lớp thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội thông qua hoạt động của mình.

Khái niệm quần chúng nhân dân có tính lịch sử. Tuỳ theo chế độ xã hội cụ thể khác nhau mà kết cấu của quần chúng cũng khác nhau; quần chúng nhân dân biến đổi theo phương thức sản xuất.

b. Khái niệm cá nhân trong lịch sử

Vĩ nhân là những cá nhân kiệt xuất trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, khoa học, nghệ thuật. Trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân, lãnh tụ là những cá nhân kiệt xuất do phong trào cách mạng quần chúng nhân dân tạo nên.

Cá nhân lãnh tụ là những người có năng lực và phẩm chất tiêu biểu nhất trong phong trào quần chúng, được quần chúng tin yêu và tạo nên. Lãnh tụ có vai trò to lớn quan trọng trong lịch sử. Để trở thành lãnh tụ phải có phẩm chất cơ bản:

Một là, có tri thức khoa học uyên bác, nắm được xu hướng vận động của dân tộc, quốc tế và thời đại;

Hai là, có năng lực tập hợp quần chúng, thống nhất ý chí và hành động của quần chúng vào nhiệm vụ của dân tộc, quốc tế và thời đại;

Ba là, gắn bó mật thiết với quần chúng, dám hy sinh thân mình vì lợi ích của quần chúng, của dân tộc, quốc tế và thời đại.

Chủ nghĩa Mác-Lênin đánh giá cao vai trò của cá nhân - lãnh tụ trong sự phát triển lịch sử đồng thời kiên quyết chống tệ sùng bái cá nhân.

2. Quan hệ giữa quần chúng nhân dân với lãnh tụ

a. Quan hệ giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ là quan hệ biện chứng

Đây là quan hệ biện chứng, tính biện chứng của quan hệ này thể hiện ở chỗ:

Thứ nhất, quần chúng nhân dân và lãnh tụ thống nhất với nhau. Không có phong trào cách mạng của quần chúng thì không có lãnh tụ. Lãnh tụ có vai trò thúc đẩy phong trào quần chúng, vì họ là những cá nhân ưu tú.

Thứ hai, quần chúng nhan dân và lãnh tụ thống nhất trong mục đích và lợi ích của mình. Chính sự thống nhất lợi ích này đã quy định sự thống nhất về mục tiêu của phong trào; về mục đích và nhận thức cũng như hành động giữa lãnh tụ và cá nhân.

Thứ ba, giữa quần chúng và nhân dân cũng có những khác biệt. Sự khác biệt giữa quần chúng và nhân dân thể hiện ở vai trò cụ thể của lãnh tụ và quần chúng. Quần chúng nhân dân và lãnh tụ khác nhau ở vai trò cụ thể đối với lịch sử, quần chúng đóng vai trò quyết định, lãnh tụ là người dẫn dắt, định hướng phong trào quần chúng, thúc đẩy sự phát triển của phong trào.

b. Vai trò của quần chúng nhân dân

Trước khi triết học Mác ra đời thì không có nhà triết học nào giải quyết đúng vấn đề vai trò quần chúng nhân dân. Theo triết học Mác-Lênin, quần chúng nhân dân người sáng tạo chân chính ra lịch sử. Bởi lẽ, mọi lý tưởng giải phóng con người, giải phóng xã hội muốn thực hiện trên thực tế phải thông qua phong trào quần chúng nhân dân. Quần chúng nhân dân là lực lượng quyết định sự phát triển của lịch sử bởi các lý do sau:

Thứ nhất, quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của mọi xã hội, là người trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất - cơ sở tồn tại, phát triển của xã hội. Nói khác đi, hoạt động sản xuất ra của của cải vật chất cho xã hội của quần chúng nhân dân là điều kiện cơ bản quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội.

Thứ hai, quần chúng nhân dân là lực lượng cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội; là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội. Lịch sử đã chứng minh, không có cuộc cách mạng nào mà lại thiếu sự lực lượng cơ bản là quần chúng nhân dân. Chính quần chúng nhân dân đóng vai trò quyết định thắng lợi của mọi cuộc cách mạng xã hội. Vì vậy, người ta hay nói, cách mạng là ngày hội của quần chúng nhân dân là vậy.

Thứ ba, quần chúng nhân dân là người đóng vai trò to lớn trong sự phát triển văn hóa, nghệ thuật và khoa học, là người sáng tạo ra những giá trị văn hoá tinh thần. Hoạt động của quần chúng nhan dân trong thực tiễn là nguồn cảm hứng vô tận cho mọi sáng tạo tinh thần trong xã hội. Hơn nữa, những giá trị văn hoá tinh thần chỉ trở thành trường tồn khi được quần chúng nhân dân chấp nhận, lưu giữ, truyền bá sâu rộng trong nhân dân. Quần chúng nhân dân không chỉ sáng tạo ra những giá trị văn hoá, tinh thần, khoa học mà còn áp dụng những thành tựu đó vào hoạt động thực tiễn.

Xét tất cả các mặt trong đời sống xã hội, từ kinh tế đến chính trị, từ thực tiễn đến tinh thần tư tưởng, thì quần chúng nhân dân đóng vai trò quyết định lịch sử. Sức mạnh của quần chúng nhân dân là sức mạnh vật chất và mọi sự vận động lịch sử đều do quần chúng trực tiếp tạo ra. Tuy nhiên, chỉ có trong chủ nghĩa xã hội thì vai trò chân chính của nhân dân mới được phát huy một cách triệt để. Vì vậy, cần phê phán những quan điểm không đúng về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử. Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo cách mạng luôn đề cao tư tưởng “lấy dân làm gốc”.

c. Vai trò của lãnh tụ

Trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân, lãnh tụ có những nhiệm vụ chủ yếu sau:

Thứ nhất, lãnh tụ có vai trò nắm bắt xu thế của dân tộc, thời đại trên cơ sở các quy luật khách quan để định hướng phong trào quần chúng.

Thứ hai, định hướng chiến lược và hoạch định chương trình hành động cách mạng.

Thứ ba, tổ chức lực lượng, giáo dục, thuyết phục quần chúng, thống nhất ý chí và hành động của quần chúng nhằm giải quyết nhiệm vụ của phong trào.

Chủ nghĩa Mác-Lênin đánh gía đúng vai trò của lãnh tụ nhưng đòi hỏi chống tệ sùng bái cá nhân. Người mắc tệ sùng bái cá nhân sẽ thường đặt mình cao hơn quần chúng, cao hơn tập thể, đứng ngoài đường lối, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Đảng và Nhà nước ta luôn giáo dục cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần vai trò của quần chúng nhân dân, phát huy vai trò của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng.

TÓM LƯỢC NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN GHI NHỚ

Trong chương này anh/chị cần ghi nhớ những điểm sau:

1. Bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội.

2. Sự tác động qua lại giữa mặt sinh vật và mặt xã hội trong con người tạo thành bản chất con người.

3. Cá nhân vừa là sản phẩm của xã hội vừa là chủ thể của sự phát triển.

4. Quần chúng nhân dân quyết định lịch sử, lãnh tụ có vai trò to lớn.

5. Trong CNXH quần chúng nhân dân là người làm chủ xã hội, tất cả những cá nhân và bộ máy lãnh đạo, quản lý đều là công cụ thực hiện quyền làm chủ của quần chúng nhân dân.

CÂU HỎI SUY LUẬN

Câu hỏi 1: Cơ sở triết học của quan điểm "lấy dân làm gốc"?

Câu hỏi 2: Vì sao con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của quá trình xây dựng xã hội mới ở nước ta?

Câu hỏi 3: Nhân cách là gì và vấn đề xây dựng nhân cách người sinh viên Việt Nam hiện nay?

Gợi ý: Nhân cách là sự tổng hợp các yếu tố sinh học, tâm lý, xã hội tạo nên đặc trưng riêng có của cá nhân. Chú ý, nhân cách được hình thành và phát triển phụ thuộc vào ba yếu tố cơ bản: dựa trên cơ sở sinh học, di truyền tư chất sinh học của cá nhân (phải giáo dục thể chất, sức khoẻ vật lý cho sinh viên); môi trường xã hội (sự kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong giáo dục sinh viên Việt Nam hiện nay); thế giới quan của cá nhân từng sinh viên (giáo dục tri thức, tình cảm, niềm tin, định hướng giá trị, v.v cho sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường). Trên cơ sở đó, hình thành ở sinh viên những phẩm chất: trí tuệ, năng lực chuyên môn, phẩm chất chính trị, đạo đức, thẩm mỹ, v.v.

Câu hỏi 4: Nguyên tắc cơ bản của việc xác lập quan hệ giữa cá nhân và tập thể và xã hội là gì?

Gợi ý: Đó là mối quan hệ lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng xã hội, tập thể; là việc giải quyết mối quan hệ lợi ích này.

Ý THỨC XÃ HỘI

CHƯƠNG XIII

Ý THỨC XÃ HỘI

Mục tiêu:

Sau khi học xong chương này anh/chị sẽ nắm được những kiến thức cơ bản về tồn tại xã hội và ý thức xã hội, quan hệ biện chứng giữa ý thức xã hội và tồn tại xã hội; các hình thái ý thức xã hội, từ đó vận dụng vào việc nhận thức những chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng đời sống tinh thần của xã hội nước ta hiện nay.

Nội dung:

I. TỒN TẠI XÃ HỘI VÀ Ý THỨC XÃ HỘI

1. KháI niệm tồn tại xã hội và ý thức xã hội

a. Khái niệm tồn tại xã hội

Tồn tại xã hội là toàn bộ những điều kiện sinh hoạt vật chất và quan hệ vật chất quy định tồn tại và phát triển xã hội.

Những yếu tố cơ bản của điều kiện sinh hoạt vật chất bao gồm:

- Phương thức sản xuất vật chất;

- Điều kiện tự nhiên - hoàn cảnh địa lý;

- Dân số và mật độ dân số.

Trong đó, phương thức sản xuất vật chất là yếu tố cơ bản nhất.

b. Khái niệm và kết cấu của ý thức xã hội

Khái niệm ý thức xã hội

Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội bao gồm toàn bộ những quan điểm, tư tưởng cùng những tình cảm, tâm trạng,…của những cộng động xã hội nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định.

Ý thức xã hội là cái phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển khác nhau của xã hội, bao gồm những trạng thái tâm lý xã hội, những quan điểm chính trị, tư tưởng, đạo đức, triết học. Ý thức xã hội phát triển cùng với sự phát triển xã hội trong lĩnh vực sản xuất vật chất.

Cần thấy sự khác nhau tương đối giữa giữa ý thức xã hội và ý thức cá nhân. Ý thức cá nhân phản ánh tồn tại xã hội, nhưng không phải bao giờ cũng thể hiện quan điểm, tâm trạng, tình cảm của một cộng đồng xã hội. Ý thức cá nhân và ý thức xã hội tồn tại trong mối liên hệ hữu cơ, thâm nhập vào nhau, làm phong phú cho nhau. Ý thức cá nhân được hình thành trên cơ sở môi trường, điều kiện sống của cá nhân cụ thể. Do kết quả của sự giáo dục, trường đời cá nhân trải qua.

Khi ý thức cá nhân vươn lên tầm khái quát, phản ánh được cái chung của một cộng đồng người nhất định; khi đó, ý thức cá nhân chuyển hóa thành ý thức xã hội.

Kết cấu của ý thức xã hội

Ý thức xã hội là hiện tượng phức tạp, có thể xem xét, phân loại thành những cấp độ khác nhau.

- Theo nội dung và lĩnh vực phản ánh đời sống xã hội bao gồm ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức, ý thức tôn giáo, ý thức thẩm mỹ ...

- Theo trình độ phản ánh người ta chia thành ý thức thông thường và ý thức lý luận. Ý thức xã hội thông thường là toàn bộ những tri thức, những quan niệm, v.v của những cộng đồng người nhất định, được hình thành một cách trực tiếp từ hoạt động thực tiễn hàng ngày, chưa được hệ thống hoá, khái quát hoá thành lý luận. Ý thức xã hội thông thường phản ánh trực tiếp sinh động đời sống hàng ngày của con người vì vậy, nó đa dạng, phong phú, sinh động. Ý thức lý luận là những tư tưởng quan điểm đã được hệ thống hoá, khái quát hoá thành các học thuyết xã hội, được trình bày dưới dạng những khái niệm, phạm trù, quy luật. Nó có thể phản ánh được bản chất đời sống xã hội.

- Người ta còn phân ý thức xã hội thành hai cấp độ: tâm lý xã hội và hệ tư tưởng.

Tâm lý xã hội - là hiện tượng tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm toàn bộ những tình cảm, tâm trạng, tập quán, thói quen, tập quán,… của con người, của một bộ phận xã hội hoặc của toàn xã hội được hình thành một cách tự phát dưới tác động trực tiếp của điều kiện sống hàng ngày của họ và phản ánh đời sống đó.

Đặc điểm của tâm lý xã hội phản ánh một cách trực tiếp điều kiện sinh sống hàng ngày của con người, là sự phản ánh có tính chất tự phát, thường ghi lại những mặt bề ngoài của tồn tại xã hội. Nó không có khả năng vạch ra đầy đủ, rõ ràng, sâu sắc bản chất các mối quan hệ xã hội của con người. Những quan niệm ở trình độ tâm lý xã hội còn ở trình độ kinh nghiệm, những yếu tố trí tuệ, tình cảm đan xen nhau. Tuy nhiên, tâm lý xã hội đóng vai trò quan trọng trong đời sống thường ngày của con người.

Hệ tư tưởng bao gồm những tư tưởng, quan điểm đã được hệ thống hóa thành lý luận, thành các học thuyết về xã hội.

Với tính cách là hệ thống lý luận về xã hội, hệ tư tưởng có vai trò chỉ đạo thực tiễn, hoạt động cải tạo xã hội của giai cấp. Hệ tư tưởng được hình thành một cách tự giác. Có hệ tư tưởng khoa học và hệ tư tưởng không khoa học.

Quan hệ biện chứng giữa tâm lý xã hội và hệ tư tưởng

Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng có nguồn gốc chung là tồn tại xã hội, nhưng là hai cấp độ khác nhau về chất trong trình độ phản ánh.

Tuy vậy, giữa tâm lý xã hội và hệ tư tưởng cũng có quan hệ tác động, ảnh hưởng lẫn nhau trong quá trình tác động đến thực tiễn. Hệ tâm lý xã hội tác động đến hệ tư tưởng thể hiện ở chỗ, nó tạo điều kiện thuận lợi hoặc gây khó khăn cho các thành viên của giai cấp trong việc tiếp thu hệ tư tưởng của giai cấp mình. Nó giúp cho hệ tư tưởng bớt xơ cứng, sinh động, phong phú hơn. Ngược lại, hệ tư tưởng khoa học giúp cho tâm lý xã hội phát triển theo chiều hướng đúng đắn, lành mạnh có lợi cho tiến bộ xã hội. Hệ tư tưởng phản khoa học sẽ làm cho những yếu tố tiêu cực của tâm lý xã hội nảy sinh. Tuy nhiên, hệ tư tưởng không nảy sinh trực tiếp từ tâm lý xã hội. Hệ tư tưởng không phải là “sự cô đặc” của tâm lý xã hội.

c. Tính giai cấp của ý thức xã hội

Trong xã hội có giai cấp thì các giai cấp trong xã hội có địa vị xã hội khác nhau, vai trò xã hội khác nhau, điều kiện sống và hoạt động khác nhau, lợi ích khác nhau, nên ý thức xã hội của các giai cấp khác nhau là khác nhau. Nói cách khác, ý thức xã hội mang tính giai cấp.

Tính giai cấp của ý thức xã hội thể hiện cả trong hiện tượng tâm lý xã hội và hệ tư tưởng. Về mặt tâm lý xã hội, mỗi giai cấp có tình cảm, tâm trạng, thói quen, riêng. Về mặt hệ tư tưởng thì tính giai cấp thể hiện sâu sắc hơn. Các giai cấp đối khác nhau thì có các quan điểm chính trị, đạo đức, pháp luật khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Ví dụ, các quan điểm chính trị, pháp luật, v.v của giai cấp thống trị và giai cấp bị trị thường đối lập nhau. Tư tưởng của thời đại là tư tưởng của giai cấp thống trị về kinh tế và chính trị của thời đại đó. Ý thức xã hội của các giai cấp khác nhau tác động lẫn nhau.

Ý thức xã hội vừa mang tính giai cấp vừa mang đặc điểm của dân tộc và tính nhân loại. Bởi lẽ, ý thức xã hội không chỉ phản ánh những điều kiện sinh hoạt vật chất, đời sống vật chất của giai cấp mình mà cả những điều kiện sinh hoạt vật chất, đời sống vật chất của cả dân tộc. Do vậy, ngoài tâm lý và hệ tư tưởng giai cấp, trong ý thức xã hội còn có tâm lý, tình cảm, tâm trạng, thói quen, v.v của dân tộc, được truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác tạo thành truyền thống dân tộc. Ý thức xã hội cũng phản ánh những điều kiện vật chất của thời đại, những quan hệ quốc tế mang tính nhân loại. Do vậy, ý thức xã hội không chỉ mang tính giai cấp, dân tộc mà còn mang tính nhân loại.

2. Biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội

a. Vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội

Sự quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội thể hiện ở chỗ:

Thứ nhất, tồn tại xã hội là nguồn gốc khách quan, cơ sở khách quan của sự hình thành, ra đời của ý thức xã hội (nghệ thuật, tư tưởng, chính trị, pháp quyền).

Thứ hai, tồn tại xã hội quyết định nội dung, tính chất, đặc điểm của ý thức xã hội nói chung, của các hình thái ý thức xã hội nói riêng.

Thứ ba, tồn tại xã hội thay đổi sớm hay muộn sẽ kéo theo sự thay đổi của ý thức xã hội. Tất nhiên, mức độ, nhịp độ thay đổi của các bộ phận trong ý thức xã hội diễn ra khác nhau. Có những bộ phận biến đổi nhanh hơn (ví dụ như chính trị, pháp luật), có bộ phận thay đổi chậm hơn (ví dụ như nghệ thuật, tôn giáo).

Thứ tư, trong xã hội có giai cấp thì ý thức xã hội cũng mang tính giai cấp.

b. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội

Trong quá trình phát triển của mình, ý thức xã hội có tính độc lập tương đối so với tồn tại xã hội. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội thể hiện ở các khía cạnh sau:

Thứ nhất, ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội.

Có điều này là do nhiều nguyên nhân khác nhau. Ở đây, ý thức xã hội là cái phản ánh, tồn tại xã hội là cái được phản ánh. Cái được phản ánh là cái có trước và biến đổi nhanh, còn cái phản ánh là cái có sau và thường biến đổi chậm hơn cái được phản ánh. Mặt khác, một số bộ phận của ý thức xã hội, đặc biệt trong các hiện tượng tâm lý xã hội, đã ăn sâu vào tiềm thức con người, nên nó có tính bảo thủ, có sức ỳ rất lớn. Trong xã hội thường có lực lượng bảo thủ muốn duy trì những ý thức xã hội lạc hậu theo hướng bảo vệ lợi ích của mình.

Khắc phục những biểu hiện lạc hậu của ý thức xã hội bằng con đường phát triển kinh tế - xã hội, phát triển khoa học - kỹ thuật và tuyên truyền giáo dục ý thức tiến bộ, cũng như phải đấu tranh chống lại những lực lượng bảo thủ, phản tiến bộ.

Thứ hai, ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội.

Ý thức xã hội thể hiện trong lý luận khoa học là sự khái quát dự báo khoa học sự vận động và phát triển xã hội. Với tính cách là lý luận khoa học, ý thức xã hội có vai trò dẫn đường, định hướng cho hoạt động thực tiễn của con người, nó tác động tích cực đối với tồn tại xã hội. Do dựa trên cơ sở khoa học, những quan điểm tiến bộ có thể dự báo được khuynh hướng vận động, phát triển của xã hội. Do vậy, ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội là vậy. Tuy nhiên, ngay cả khi vượt trước, ý thức xã hội cũng vẫn bị chi phối bởi tồn tại xã hội.

Thứ ba, ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của mình.

Ý thức xã hội một mặt phản ánh tồn tại xã hội, trong sự phát triển của nó với tính cách là một chỉnh thể, nó không nảy sinh đơn thuần chỉ từ tồn tại xã hội, phản ánh tồn tại xã hội ấy mà luôn có sự kế thừa trong dòng chảy phát triển của mình. Vì vậy, chúng ta không thể giải thích một tư tưởng, quan niệm nào đó, đơn thuần từ tồn tại xã hội mà không chú ý đến sự phát triển của tư tưởng, quan niệm đó trước đấy trong lịch sử, hay sự kế thừa những di sản, giá trị của các thời đại trước, của các dân tộc khác trên thế giới. Trong lịch sử nhân loại, có những quốc gia kinh tế không phát triển so với các nước láng giềng nhưng tư tưởng triết học lại phát triển rực rỡ hơn các nước có kinh tế phát triển. Ví dụ, nước Pháp thế kỷ XVIII, kinh tế không phát triển bằng nước Anh, nhưng triết học phát triển hơn nước Anh. Nước Đức nửa đầu thế kỷ XIX kinh tế không phát triển bằng nước Anh, Pháp nhưng triết học Đức phát triển hơn triết học Anh, Pháp. Tính chất, nội dung kế thừa phụ thuộc vào địa vị và lợi ích giai cấp. Các giai cấp khác nhau thì kế thừa những yếu tố khác nhau của ý thức xã hội.

Vì vậy, chúng ta phải biết kế thừa những gia trị của nhân loại, của cha ông trước đây trong quá trình xây dựng đời sống văn hoá mới, tinh thần mới.

Thứ tư, sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của chúng

Các hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội ở các góc độ khác nhau; nhưng giữa chúng có sự tác động qua lại, ảnh hưởng chi phối lẫn nhau. Ví dụ, ý thức chính trị và ý thức pháp luật tác động qua lại, trực tiếp lẫn nhau. Ý thức đạo đức và ý thức pháp luật tác động, bổ sung cho nhau. Ở mỗi thời đại nhất định, có một số hình thái ý thức nổi lên, có vai trò chi phối ảnh hưởng đến các hình thái ý thức khác. Ví dụ, triết học thời cổ đại, thần học thời trung cổ, chính trị trong thời cận hiện đại.

Thứ năm, sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội

Ý thức xã hội ra đời trên cơ sở tồn tại xã hội, nhưng sau khi ra đời trong hình thức hoàn chỉnh của nó, ý thức xã hội tác động trở lại đối với tồn tại xã hội. Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội là nhiều chiều, đan xen, phức tạp, nhưng nhìn chung theo hai hướng tích cực và tiêu cực. Hướng tích cực tức là thúc đẩy tồn tại phát triển, hướng tiêu cực là kìm hãm tồn tại xã hội phát triển.

Mức độ tác động và hiệu quả tác động của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội tùy thuộc vào các yếu tố sau:

- Tính tiến bộ, cách mạng hay lạc hậu, phản động của chủ thể mang ý thức xã hội (địa vị lịch sử của giai cấp - chủ thể của ý thức xã hội).

- Tính khoa học (hay không) của ý thức xã hội.

- Mức độ thâm nhập vào đời sống xã hội, vào quần chúng nhân dân của ý thức xã hội.

- Năng lực triển khai, hiện thực hóa ý thức xã hội vào trong thực tiễn của các giai cấp.

c. Ý nghĩa phương pháp luận

Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là hai mặt thống nhất biện chứng trong đời sống xã hội. Do vậy, để xây dựng xã hội mới cần chú ý phát triển cả tồn tại xã hội cả ý thức xã hội. Phát triển cơ sở vật chất xã hội trên cơ sở phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Nâng cao chất lượng giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời cần thấy rằng, không chỉ những thay đổi trong tồn tại xã hội mới làm thay đổi đời sống xã hội mà cả những thay đổi trong ý thức xã hội cũng có thể dẫn đến những thay đổi trong tồn tại xã hội.

Tiến hành đồng bộ công tác giáo dục định hướng xã hội chủ nghĩa, trong xây dựng đời sống văn hoá mới xã hội chủ nghĩa.

Kế thừa và đổi mới trong việc phát huy các giá trị truyền thống dân tộc trong xây dựng đời sống văn hoá mới, con người mới.

II. CÁC HÌNH THÁI Ý THỨC XÃ HỘI

1. Ý thức chính trị

Hình thái ý thức chính trị là bộ phận của ý thức xã hội, phản ánh những quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội, lợi ích giai cấp, địa vị giữa các giai cấp, các dân tộc hay giữa các quốc gia, cũng như thái độ của các giai cấp đối với quyền lực nhà nước trong xã hội. Ý thức chính trị chỉ xuất hiện khi trong xã hội có nhà nước, giai cấp.

Ý thức chính trị bao gồm ý thức chính trị thực tiễn được nảy sinh trực tiếp từ thực tiễn chính trị của các chủ thể, thể hiện ở tình cảm chính trị, tâm trạng chính trị, v.v Những trạng thái tâm lý chính trị thường không bền vững nhưng đóng vai trò hết sức quan trọng trong đời sống chính trị của quần chúng nhân dân. Hệ tư tưởng chính trị phản ánh trực tiếp, tập trung lợi ích giai cấp của một giai cấp nhất định, nó thường được thể hiện trong đường lối, cương lĩnh chính trị của đảng chính trị, luật pháp, chính sách của nhà nước của giai cấp thống trị. Hệ tư tưởng chính trị được hình thành một cách tự giác. Nó được các nhà tư tưởng của giai cấp truyền bá. Hệ tư tưởng chính trị thường gắn với các tổ chức chính trị. Ý thức chính trị của giai cấp thống trị thông qua nhà nước tác động trở lại tới kinh tế và các hình thái ý thức xã hội khác. Sự tác động tích cực hay tiêu cực của ý thức chính trị đến kinh tế và tồn tại xã hội phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng trước hết vào tính tích cực, tiến bộ hay không của chủ thể mang ý thức chính trị.

Trong hiện thực xã hội, hệ tư tưởng chính trị của giai cấp thống trị chi phối toàn bộ hoạt động, đời sống chính trị - tinh thần của xã hội.

2. Ý thức pháp quyền

Ý thức pháp quyền ra đời gắn với xã hội có giai cấp và nhà nước. Ý thức pháp quyền là hệ thống các quan điểm của một giai cấp về bản chất, vai trò của pháp luật; về quyền hạn, nghĩa vụ của các thành viên trong xã hội, của nhà nước, các tổ chức xã hội trên cơ sở những nguyên tắc đã được pháp luật và xã hội thừa nhận, thể hiện về tính hợp pháp hay không hợp pháp của hành vi con người; cùng những nhận thức và tình cảm của con người trong việc thực thi luật pháp.

Trong xã hội có giai cấp, ý thức, tư tưởng pháp quyền của giai cấp thống trị được thể chế hóa thành các điều luật, các quy định; trở thành những nguyên tắc buộc mọi thành viên trong xã hội phải tuân theo. Pháp luật, thể hiện rõ rệt ý chí, mục đích của giai cấp thống trị. Do vậy, mỗi nhà nước, mỗi chế độ chỉ có một hệ thống pháp luật của giai cấp nắm chính quyền.


3. Ý thức đạo đức

Ý thức đạo đức là mặt tinh thần của đời sống xã hội, nó hình thành rất sớm cùng với tồn tại xã hội loài người. Ý thức đạo đức là toàn bộ những quan niệm, tri thức và các trạng thái xúc cảm tâm lý chung của các cộng đồng người về các giá trị thiện - ác; lương tâm - trách nhiệm; hạnh phúc, công bằng, v.v và về hệ thống những quy tắc, chuẩn mực đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử giữa cá nhân với xã hội và cá nhân với cá nhân trong xã hội. Mặt khác, nó còn bao hàm cả những cảm xúc, những tình cảm đạo đức của con người.

Những giá trị phổ biến chung của ý thức đạo đức thể hiện trong các khái niệm thiện, ác, công bằng, lương tâm, trách nhiệm. Trong xã hội có giai cấp thì ý thức đạo đức cũng mang tính giai cấp.

4. Ý thức khoa học

Ý thức khoa học là một hình thái ý thức xã hội, là hệ thống tri thức phản ánh hiện thực dưới dạng lôgíc trừu tượng và được kiểm nghiệm qua thực tiễn. Đối tượng phản ánh của ý thức khoa học bao quát tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy. Hình thức biểu hiện chủ yếu của tri thức khoa học là phạm trù, định luật, quy luật. Tri thức khoa học thâm nhập vào các hình thái ý thức xã hội khác góp phần hình thành các khoa học tương ứng với từng hình thái ý thức đó. Ví dụ, ý thức chính trị và chính trị học; ý thức đạo đức và đạo đức học, v.v.

5. Ý thức thẩm mỹ

Ý thức thẩm mỹ là sự phản ánh hiện thực vào ý thức con người trong quan hệ với nhu cầu thưởng thức và sáng tạo “cái đẹp”. Nghệ thuật là hình thức biểu hiện cao nhất của ý thức thẩm mỹ.

Cũng như các hình thái ý thức xã hội khác, nghệ thuật bắt nguồn từ tồn tại xã hội, nhưng khác với khoa học, triết học, nghệ thuật phản ánh thế giới bằng hình tượng nghệ thuật hết sức sinh động, cụ thể. Nghệ thuật nảy sinh rất sớm từ khi xã hội chưa phân chia thành giai cấp.

Hình tượng nghệ thuật cũng phản ánh cái bản chất của đời sống hiện thực nhưng thông qua cái cá biệt, cụ thể, cảm tính, sinh động. Nghệ thuật phản ánh tồn tại xã hội nhưng gián tiếp.

Trong xã hội có giai cấp thì ý thức nghệ thuật cũng mang tính giai cấp. Triết học Mác-Lênin khi đề cập đến tính giai cấp của nghệ thuật, không hạ thấp mà còn nhấn mạnh tính dân tộc và tính nhân loại.


6. Ý thức tôn giáo

Bản chất của ý thức tôn giáo là sự phản ánh hiện thực một cách hư ảo. Thực chất của quan niệm tôn giáo là người ta thần thánh hóa các lực lượng tự nhiên, quan hệ xã hội thành cái siêu nhiên, thần thánh Ý thức tôn giáo với tính cách là một hình thái ý thức xã hội bao gồm tâm lý tôn giáo và hệ tư tưởng tôn giáo.

Tâm lý tôn giáo là toàn bộ những biểu tượng, tình cảm, tâm trạng, thói quen của quần chúng về tín ngưỡng tôn giáo.

Hệ tư tưởng tôn giáo là hệ thống giáo lý do các giáo sĩ, các nhà thần học tạo ra và truyền bá trong xã hội. Tâm lý tôn giáo và hệ tư tưởng tôn giáo tác động, bổ sung lẫn nhau. Tâm lý tôn giáo đem lại cho hệ tư tưởng tôn giáo một sắc thái riêng, một đặc trưng tình cảm riêng. Hệ tư tưởng tôn giáo củng cố, “chứng minh” cho các hiện tượng tâm lý tôn giáo, khái quát chúng, làm cho chúng có tính tư tưởng tôn giáo.

Ý thức tôn giáo thực hiện chức năng chủ yếu là chức năng đền bù hư ảo. Điều này nói lên rằng, tôn giáo có khả năng bù đắp những thiếu hụt nhất định mà trong hiện thực con người chưa đạt được.

Tôn giáo trong hình thức phát triển của nó bao gồm:

- Niềm tin tôn giáo;

- Tín điều tôn giáo;

- Tổ chức tôn giáo (giáo hội).

Trong đó, niềm tin tôn giáo là cơ sở của ý thức tôn giáo. Giải quyết vấn đề tôn giáo (niềm tin tôn giáo) là một quá trình lâu dài, trên cơ sở phát triển kinh tế - xã hội, khoa học - kỹ thuật và đời sống tinh thần xã hội.

TÓM LƯỢC NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN GHI NHỚ

Trong chương này, anh/chị cần ghi nhớ những vấn đề sau:

1. Ý thức xã hội là một hiện tượng tinh thần, là mặt tinh thần của đời sống xã hội.

2. Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng có nguồn gốc chung là tồn tại xã hội, nhưng hai cấp độ khác nhau về chất trong trình độ phản ánh.

3. Ý thức xã hội vừa mang tính giai cấp vừa mang tính dân tộc và tính nhân loại.

4. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, tính độc lập tương đối của ý thức xã hội.

5. Ý thức chính trị phản ánh những quan hệ kinh tế - xã hội, lợi ích giai cấp, địa vị các giai cấp trong xã hội.

6. Pháp luật thể hiện rõ rệt ý chí, mục đích của giai cấp thống trị.

7. Chức năng cơ bản của ý thức tôn giáo là đền bù hư ảo.

CÂU HỎI SUY LUẬN

Câu hỏi 1: Hãy lý giải tại sao ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội nhưng lại có thể vượt trước tồn tại xã hội? Điều này có mâu thuẫn nhau không?

Gợi ý: Không mâu thuẫn. Cái làm cho ý thức xã hội thường lạc hậu là do bản thân ý thức xã hội là cái phản ánh, cho nên nó bao giờ cũng có sau cái được phản ánh (ở đây là tồn tại xã hội). Trong ý thức xã hội có yếu tố tri thức, nếu tri thức đúng đắn, khoa học nó có thể dự báo được xu hướng vận động, phát triển của sự vật. Do vậy, nó có thể phản ánh vượt trước tồn tại xã hội. Dù ý thức xã hội có phản ánh vượt trước tồn tại xã hội thì nó vẫn bị tồn tại xã hội quy định.

Câu hỏi 2: Hiểu thế nào về luận điểm: ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội? Có thể hiểu phản ánh ở đây như là sự phản ánh của cảm giác không?

Gợi ý: Không nên hiểu phản ánh của ý thức xã hội như sự phản ánh của cảm giác. Bởi lẽ, cùng một tồn tại xã hội như nhau, nhưng ở các giai cấp khác nhau lại có ý thức xã hội không như nhau. Trong chuyên đề vật chất - ý thức chúng ta rõ, đứng trước sự vật khách quan như nhau thì ở mọi người về cơ bản phải có cảm giác giống nhau. Nhưng đối với ý thức xã hội lại không vậy. Điều này chứng tỏ, phải hiểu phản ánh của ý thức xã hội như là thái độ, cách tiếp nhận, phản ứng của các giai cấp trước cùng một tồn tại xã hội. Điều này hoàn toàn đúng, bởi lẽ, các giai cấp khác nhau sẽ có lợi ích khác nhau. Thông qua lăng kính lợi ích mà các giai cấp sẽ có thái độ, cách tiếp nhận, phản ứng khác nhau đối với cùng một tồn tại xã hội.

Ý THỨC XÃ HỘI

CHƯƠNG XIII

Ý THỨC XÃ HỘI

Mục tiêu:

Sau khi học xong chương này anh/chị sẽ nắm được những kiến thức cơ bản về tồn tại xã hội và ý thức xã hội, quan hệ biện chứng giữa ý thức xã hội và tồn tại xã hội; các hình thái ý thức xã hội, từ đó vận dụng vào việc nhận thức những chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng đời sống tinh thần của xã hội nước ta hiện nay.

Nội dung:

I. TỒN TẠI XÃ HỘI VÀ Ý THỨC XÃ HỘI

1. KháI niệm tồn tại xã hội và ý thức xã hội

a. Khái niệm tồn tại xã hội

Tồn tại xã hội là toàn bộ những điều kiện sinh hoạt vật chất và quan hệ vật chất quy định tồn tại và phát triển xã hội.

Những yếu tố cơ bản của điều kiện sinh hoạt vật chất bao gồm:

- Phương thức sản xuất vật chất;

- Điều kiện tự nhiên - hoàn cảnh địa lý;

- Dân số và mật độ dân số.

Trong đó, phương thức sản xuất vật chất là yếu tố cơ bản nhất.

b. Khái niệm và kết cấu của ý thức xã hội

Khái niệm ý thức xã hội

Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội bao gồm toàn bộ những quan điểm, tư tưởng cùng những tình cảm, tâm trạng,…của những cộng động xã hội nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định.

Ý thức xã hội là cái phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển khác nhau của xã hội, bao gồm những trạng thái tâm lý xã hội, những quan điểm chính trị, tư tưởng, đạo đức, triết học. Ý thức xã hội phát triển cùng với sự phát triển xã hội trong lĩnh vực sản xuất vật chất.

Cần thấy sự khác nhau tương đối giữa giữa ý thức xã hội và ý thức cá nhân. Ý thức cá nhân phản ánh tồn tại xã hội, nhưng không phải bao giờ cũng thể hiện quan điểm, tâm trạng, tình cảm của một cộng đồng xã hội. Ý thức cá nhân và ý thức xã hội tồn tại trong mối liên hệ hữu cơ, thâm nhập vào nhau, làm phong phú cho nhau. Ý thức cá nhân được hình thành trên cơ sở môi trường, điều kiện sống của cá nhân cụ thể. Do kết quả của sự giáo dục, trường đời cá nhân trải qua.

Khi ý thức cá nhân vươn lên tầm khái quát, phản ánh được cái chung của một cộng đồng người nhất định; khi đó, ý thức cá nhân chuyển hóa thành ý thức xã hội.

Kết cấu của ý thức xã hội

Ý thức xã hội là hiện tượng phức tạp, có thể xem xét, phân loại thành những cấp độ khác nhau.

- Theo nội dung và lĩnh vực phản ánh đời sống xã hội bao gồm ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức, ý thức tôn giáo, ý thức thẩm mỹ ...

- Theo trình độ phản ánh người ta chia thành ý thức thông thường và ý thức lý luận. Ý thức xã hội thông thường là toàn bộ những tri thức, những quan niệm, v.v của những cộng đồng người nhất định, được hình thành một cách trực tiếp từ hoạt động thực tiễn hàng ngày, chưa được hệ thống hoá, khái quát hoá thành lý luận. Ý thức xã hội thông thường phản ánh trực tiếp sinh động đời sống hàng ngày của con người vì vậy, nó đa dạng, phong phú, sinh động. Ý thức lý luận là những tư tưởng quan điểm đã được hệ thống hoá, khái quát hoá thành các học thuyết xã hội, được trình bày dưới dạng những khái niệm, phạm trù, quy luật. Nó có thể phản ánh được bản chất đời sống xã hội.

- Người ta còn phân ý thức xã hội thành hai cấp độ: tâm lý xã hội và hệ tư tưởng.

Tâm lý xã hội - là hiện tượng tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm toàn bộ những tình cảm, tâm trạng, tập quán, thói quen, tập quán,… của con người, của một bộ phận xã hội hoặc của toàn xã hội được hình thành một cách tự phát dưới tác động trực tiếp của điều kiện sống hàng ngày của họ và phản ánh đời sống đó.

Đặc điểm của tâm lý xã hội phản ánh một cách trực tiếp điều kiện sinh sống hàng ngày của con người, là sự phản ánh có tính chất tự phát, thường ghi lại những mặt bề ngoài của tồn tại xã hội. Nó không có khả năng vạch ra đầy đủ, rõ ràng, sâu sắc bản chất các mối quan hệ xã hội của con người. Những quan niệm ở trình độ tâm lý xã hội còn ở trình độ kinh nghiệm, những yếu tố trí tuệ, tình cảm đan xen nhau. Tuy nhiên, tâm lý xã hội đóng vai trò quan trọng trong đời sống thường ngày của con người.

Hệ tư tưởng bao gồm những tư tưởng, quan điểm đã được hệ thống hóa thành lý luận, thành các học thuyết về xã hội.

Với tính cách là hệ thống lý luận về xã hội, hệ tư tưởng có vai trò chỉ đạo thực tiễn, hoạt động cải tạo xã hội của giai cấp. Hệ tư tưởng được hình thành một cách tự giác. Có hệ tư tưởng khoa học và hệ tư tưởng không khoa học.

Quan hệ biện chứng giữa tâm lý xã hội và hệ tư tưởng

Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng có nguồn gốc chung là tồn tại xã hội, nhưng là hai cấp độ khác nhau về chất trong trình độ phản ánh.

Tuy vậy, giữa tâm lý xã hội và hệ tư tưởng cũng có quan hệ tác động, ảnh hưởng lẫn nhau trong quá trình tác động đến thực tiễn. Hệ tâm lý xã hội tác động đến hệ tư tưởng thể hiện ở chỗ, nó tạo điều kiện thuận lợi hoặc gây khó khăn cho các thành viên của giai cấp trong việc tiếp thu hệ tư tưởng của giai cấp mình. Nó giúp cho hệ tư tưởng bớt xơ cứng, sinh động, phong phú hơn. Ngược lại, hệ tư tưởng khoa học giúp cho tâm lý xã hội phát triển theo chiều hướng đúng đắn, lành mạnh có lợi cho tiến bộ xã hội. Hệ tư tưởng phản khoa học sẽ làm cho những yếu tố tiêu cực của tâm lý xã hội nảy sinh. Tuy nhiên, hệ tư tưởng không nảy sinh trực tiếp từ tâm lý xã hội. Hệ tư tưởng không phải là “sự cô đặc” của tâm lý xã hội.

c. Tính giai cấp của ý thức xã hội

Trong xã hội có giai cấp thì các giai cấp trong xã hội có địa vị xã hội khác nhau, vai trò xã hội khác nhau, điều kiện sống và hoạt động khác nhau, lợi ích khác nhau, nên ý thức xã hội của các giai cấp khác nhau là khác nhau. Nói cách khác, ý thức xã hội mang tính giai cấp.

Tính giai cấp của ý thức xã hội thể hiện cả trong hiện tượng tâm lý xã hội và hệ tư tưởng. Về mặt tâm lý xã hội, mỗi giai cấp có tình cảm, tâm trạng, thói quen, riêng. Về mặt hệ tư tưởng thì tính giai cấp thể hiện sâu sắc hơn. Các giai cấp đối khác nhau thì có các quan điểm chính trị, đạo đức, pháp luật khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Ví dụ, các quan điểm chính trị, pháp luật, v.v của giai cấp thống trị và giai cấp bị trị thường đối lập nhau. Tư tưởng của thời đại là tư tưởng của giai cấp thống trị về kinh tế và chính trị của thời đại đó. Ý thức xã hội của các giai cấp khác nhau tác động lẫn nhau.

Ý thức xã hội vừa mang tính giai cấp vừa mang đặc điểm của dân tộc và tính nhân loại. Bởi lẽ, ý thức xã hội không chỉ phản ánh những điều kiện sinh hoạt vật chất, đời sống vật chất của giai cấp mình mà cả những điều kiện sinh hoạt vật chất, đời sống vật chất của cả dân tộc. Do vậy, ngoài tâm lý và hệ tư tưởng giai cấp, trong ý thức xã hội còn có tâm lý, tình cảm, tâm trạng, thói quen, v.v của dân tộc, được truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác tạo thành truyền thống dân tộc. Ý thức xã hội cũng phản ánh những điều kiện vật chất của thời đại, những quan hệ quốc tế mang tính nhân loại. Do vậy, ý thức xã hội không chỉ mang tính giai cấp, dân tộc mà còn mang tính nhân loại.

2. Biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội

a. Vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội

Sự quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội thể hiện ở chỗ:

Thứ nhất, tồn tại xã hội là nguồn gốc khách quan, cơ sở khách quan của sự hình thành, ra đời của ý thức xã hội (nghệ thuật, tư tưởng, chính trị, pháp quyền).

Thứ hai, tồn tại xã hội quyết định nội dung, tính chất, đặc điểm của ý thức xã hội nói chung, của các hình thái ý thức xã hội nói riêng.

Thứ ba, tồn tại xã hội thay đổi sớm hay muộn sẽ kéo theo sự thay đổi của ý thức xã hội. Tất nhiên, mức độ, nhịp độ thay đổi của các bộ phận trong ý thức xã hội diễn ra khác nhau. Có những bộ phận biến đổi nhanh hơn (ví dụ như chính trị, pháp luật), có bộ phận thay đổi chậm hơn (ví dụ như nghệ thuật, tôn giáo).

Thứ tư, trong xã hội có giai cấp thì ý thức xã hội cũng mang tính giai cấp.

b. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội

Trong quá trình phát triển của mình, ý thức xã hội có tính độc lập tương đối so với tồn tại xã hội. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội thể hiện ở các khía cạnh sau:

Thứ nhất, ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội.

Có điều này là do nhiều nguyên nhân khác nhau. Ở đây, ý thức xã hội là cái phản ánh, tồn tại xã hội là cái được phản ánh. Cái được phản ánh là cái có trước và biến đổi nhanh, còn cái phản ánh là cái có sau và thường biến đổi chậm hơn cái được phản ánh. Mặt khác, một số bộ phận của ý thức xã hội, đặc biệt trong các hiện tượng tâm lý xã hội, đã ăn sâu vào tiềm thức con người, nên nó có tính bảo thủ, có sức ỳ rất lớn. Trong xã hội thường có lực lượng bảo thủ muốn duy trì những ý thức xã hội lạc hậu theo hướng bảo vệ lợi ích của mình.

Khắc phục những biểu hiện lạc hậu của ý thức xã hội bằng con đường phát triển kinh tế - xã hội, phát triển khoa học - kỹ thuật và tuyên truyền giáo dục ý thức tiến bộ, cũng như phải đấu tranh chống lại những lực lượng bảo thủ, phản tiến bộ.

Thứ hai, ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội.

Ý thức xã hội thể hiện trong lý luận khoa học là sự khái quát dự báo khoa học sự vận động và phát triển xã hội. Với tính cách là lý luận khoa học, ý thức xã hội có vai trò dẫn đường, định hướng cho hoạt động thực tiễn của con người, nó tác động tích cực đối với tồn tại xã hội. Do dựa trên cơ sở khoa học, những quan điểm tiến bộ có thể dự báo được khuynh hướng vận động, phát triển của xã hội. Do vậy, ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội là vậy. Tuy nhiên, ngay cả khi vượt trước, ý thức xã hội cũng vẫn bị chi phối bởi tồn tại xã hội.

Thứ ba, ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của mình.

Ý thức xã hội một mặt phản ánh tồn tại xã hội, trong sự phát triển của nó với tính cách là một chỉnh thể, nó không nảy sinh đơn thuần chỉ từ tồn tại xã hội, phản ánh tồn tại xã hội ấy mà luôn có sự kế thừa trong dòng chảy phát triển của mình. Vì vậy, chúng ta không thể giải thích một tư tưởng, quan niệm nào đó, đơn thuần từ tồn tại xã hội mà không chú ý đến sự phát triển của tư tưởng, quan niệm đó trước đấy trong lịch sử, hay sự kế thừa những di sản, giá trị của các thời đại trước, của các dân tộc khác trên thế giới. Trong lịch sử nhân loại, có những quốc gia kinh tế không phát triển so với các nước láng giềng nhưng tư tưởng triết học lại phát triển rực rỡ hơn các nước có kinh tế phát triển. Ví dụ, nước Pháp thế kỷ XVIII, kinh tế không phát triển bằng nước Anh, nhưng triết học phát triển hơn nước Anh. Nước Đức nửa đầu thế kỷ XIX kinh tế không phát triển bằng nước Anh, Pháp nhưng triết học Đức phát triển hơn triết học Anh, Pháp. Tính chất, nội dung kế thừa phụ thuộc vào địa vị và lợi ích giai cấp. Các giai cấp khác nhau thì kế thừa những yếu tố khác nhau của ý thức xã hội.

Vì vậy, chúng ta phải biết kế thừa những gia trị của nhân loại, của cha ông trước đây trong quá trình xây dựng đời sống văn hoá mới, tinh thần mới.

Thứ tư, sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của chúng

Các hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội ở các góc độ khác nhau; nhưng giữa chúng có sự tác động qua lại, ảnh hưởng chi phối lẫn nhau. Ví dụ, ý thức chính trị và ý thức pháp luật tác động qua lại, trực tiếp lẫn nhau. Ý thức đạo đức và ý thức pháp luật tác động, bổ sung cho nhau. Ở mỗi thời đại nhất định, có một số hình thái ý thức nổi lên, có vai trò chi phối ảnh hưởng đến các hình thái ý thức khác. Ví dụ, triết học thời cổ đại, thần học thời trung cổ, chính trị trong thời cận hiện đại.

Thứ năm, sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội

Ý thức xã hội ra đời trên cơ sở tồn tại xã hội, nhưng sau khi ra đời trong hình thức hoàn chỉnh của nó, ý thức xã hội tác động trở lại đối với tồn tại xã hội. Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội là nhiều chiều, đan xen, phức tạp, nhưng nhìn chung theo hai hướng tích cực và tiêu cực. Hướng tích cực tức là thúc đẩy tồn tại phát triển, hướng tiêu cực là kìm hãm tồn tại xã hội phát triển.

Mức độ tác động và hiệu quả tác động của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội tùy thuộc vào các yếu tố sau:

- Tính tiến bộ, cách mạng hay lạc hậu, phản động của chủ thể mang ý thức xã hội (địa vị lịch sử của giai cấp - chủ thể của ý thức xã hội).

- Tính khoa học (hay không) của ý thức xã hội.

- Mức độ thâm nhập vào đời sống xã hội, vào quần chúng nhân dân của ý thức xã hội.

- Năng lực triển khai, hiện thực hóa ý thức xã hội vào trong thực tiễn của các giai cấp.

c. Ý nghĩa phương pháp luận

Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là hai mặt thống nhất biện chứng trong đời sống xã hội. Do vậy, để xây dựng xã hội mới cần chú ý phát triển cả tồn tại xã hội cả ý thức xã hội. Phát triển cơ sở vật chất xã hội trên cơ sở phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Nâng cao chất lượng giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời cần thấy rằng, không chỉ những thay đổi trong tồn tại xã hội mới làm thay đổi đời sống xã hội mà cả những thay đổi trong ý thức xã hội cũng có thể dẫn đến những thay đổi trong tồn tại xã hội.

Tiến hành đồng bộ công tác giáo dục định hướng xã hội chủ nghĩa, trong xây dựng đời sống văn hoá mới xã hội chủ nghĩa.

Kế thừa và đổi mới trong việc phát huy các giá trị truyền thống dân tộc trong xây dựng đời sống văn hoá mới, con người mới.

II. CÁC HÌNH THÁI Ý THỨC XÃ HỘI

1. Ý thức chính trị

Hình thái ý thức chính trị là bộ phận của ý thức xã hội, phản ánh những quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội, lợi ích giai cấp, địa vị giữa các giai cấp, các dân tộc hay giữa các quốc gia, cũng như thái độ của các giai cấp đối với quyền lực nhà nước trong xã hội. Ý thức chính trị chỉ xuất hiện khi trong xã hội có nhà nước, giai cấp.

Ý thức chính trị bao gồm ý thức chính trị thực tiễn được nảy sinh trực tiếp từ thực tiễn chính trị của các chủ thể, thể hiện ở tình cảm chính trị, tâm trạng chính trị, v.v Những trạng thái tâm lý chính trị thường không bền vững nhưng đóng vai trò hết sức quan trọng trong đời sống chính trị của quần chúng nhân dân. Hệ tư tưởng chính trị phản ánh trực tiếp, tập trung lợi ích giai cấp của một giai cấp nhất định, nó thường được thể hiện trong đường lối, cương lĩnh chính trị của đảng chính trị, luật pháp, chính sách của nhà nước của giai cấp thống trị. Hệ tư tưởng chính trị được hình thành một cách tự giác. Nó được các nhà tư tưởng của giai cấp truyền bá. Hệ tư tưởng chính trị thường gắn với các tổ chức chính trị. Ý thức chính trị của giai cấp thống trị thông qua nhà nước tác động trở lại tới kinh tế và các hình thái ý thức xã hội khác. Sự tác động tích cực hay tiêu cực của ý thức chính trị đến kinh tế và tồn tại xã hội phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng trước hết vào tính tích cực, tiến bộ hay không của chủ thể mang ý thức chính trị.

Trong hiện thực xã hội, hệ tư tưởng chính trị của giai cấp thống trị chi phối toàn bộ hoạt động, đời sống chính trị - tinh thần của xã hội.

2. Ý thức pháp quyền

Ý thức pháp quyền ra đời gắn với xã hội có giai cấp và nhà nước. Ý thức pháp quyền là hệ thống các quan điểm của một giai cấp về bản chất, vai trò của pháp luật; về quyền hạn, nghĩa vụ của các thành viên trong xã hội, của nhà nước, các tổ chức xã hội trên cơ sở những nguyên tắc đã được pháp luật và xã hội thừa nhận, thể hiện về tính hợp pháp hay không hợp pháp của hành vi con người; cùng những nhận thức và tình cảm của con người trong việc thực thi luật pháp.

Trong xã hội có giai cấp, ý thức, tư tưởng pháp quyền của giai cấp thống trị được thể chế hóa thành các điều luật, các quy định; trở thành những nguyên tắc buộc mọi thành viên trong xã hội phải tuân theo. Pháp luật, thể hiện rõ rệt ý chí, mục đích của giai cấp thống trị. Do vậy, mỗi nhà nước, mỗi chế độ chỉ có một hệ thống pháp luật của giai cấp nắm chính quyền.


3. Ý thức đạo đức

Ý thức đạo đức là mặt tinh thần của đời sống xã hội, nó hình thành rất sớm cùng với tồn tại xã hội loài người. Ý thức đạo đức là toàn bộ những quan niệm, tri thức và các trạng thái xúc cảm tâm lý chung của các cộng đồng người về các giá trị thiện - ác; lương tâm - trách nhiệm; hạnh phúc, công bằng, v.v và về hệ thống những quy tắc, chuẩn mực đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử giữa cá nhân với xã hội và cá nhân với cá nhân trong xã hội. Mặt khác, nó còn bao hàm cả những cảm xúc, những tình cảm đạo đức của con người.

Những giá trị phổ biến chung của ý thức đạo đức thể hiện trong các khái niệm thiện, ác, công bằng, lương tâm, trách nhiệm. Trong xã hội có giai cấp thì ý thức đạo đức cũng mang tính giai cấp.

4. Ý thức khoa học

Ý thức khoa học là một hình thái ý thức xã hội, là hệ thống tri thức phản ánh hiện thực dưới dạng lôgíc trừu tượng và được kiểm nghiệm qua thực tiễn. Đối tượng phản ánh của ý thức khoa học bao quát tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy. Hình thức biểu hiện chủ yếu của tri thức khoa học là phạm trù, định luật, quy luật. Tri thức khoa học thâm nhập vào các hình thái ý thức xã hội khác góp phần hình thành các khoa học tương ứng với từng hình thái ý thức đó. Ví dụ, ý thức chính trị và chính trị học; ý thức đạo đức và đạo đức học, v.v.

5. Ý thức thẩm mỹ

Ý thức thẩm mỹ là sự phản ánh hiện thực vào ý thức con người trong quan hệ với nhu cầu thưởng thức và sáng tạo “cái đẹp”. Nghệ thuật là hình thức biểu hiện cao nhất của ý thức thẩm mỹ.

Cũng như các hình thái ý thức xã hội khác, nghệ thuật bắt nguồn từ tồn tại xã hội, nhưng khác với khoa học, triết học, nghệ thuật phản ánh thế giới bằng hình tượng nghệ thuật hết sức sinh động, cụ thể. Nghệ thuật nảy sinh rất sớm từ khi xã hội chưa phân chia thành giai cấp.

Hình tượng nghệ thuật cũng phản ánh cái bản chất của đời sống hiện thực nhưng thông qua cái cá biệt, cụ thể, cảm tính, sinh động. Nghệ thuật phản ánh tồn tại xã hội nhưng gián tiếp.

Trong xã hội có giai cấp thì ý thức nghệ thuật cũng mang tính giai cấp. Triết học Mác-Lênin khi đề cập đến tính giai cấp của nghệ thuật, không hạ thấp mà còn nhấn mạnh tính dân tộc và tính nhân loại.


6. Ý thức tôn giáo

Bản chất của ý thức tôn giáo là sự phản ánh hiện thực một cách hư ảo. Thực chất của quan niệm tôn giáo là người ta thần thánh hóa các lực lượng tự nhiên, quan hệ xã hội thành cái siêu nhiên, thần thánh Ý thức tôn giáo với tính cách là một hình thái ý thức xã hội bao gồm tâm lý tôn giáo và hệ tư tưởng tôn giáo.

Tâm lý tôn giáo là toàn bộ những biểu tượng, tình cảm, tâm trạng, thói quen của quần chúng về tín ngưỡng tôn giáo.

Hệ tư tưởng tôn giáo là hệ thống giáo lý do các giáo sĩ, các nhà thần học tạo ra và truyền bá trong xã hội. Tâm lý tôn giáo và hệ tư tưởng tôn giáo tác động, bổ sung lẫn nhau. Tâm lý tôn giáo đem lại cho hệ tư tưởng tôn giáo một sắc thái riêng, một đặc trưng tình cảm riêng. Hệ tư tưởng tôn giáo củng cố, “chứng minh” cho các hiện tượng tâm lý tôn giáo, khái quát chúng, làm cho chúng có tính tư tưởng tôn giáo.

Ý thức tôn giáo thực hiện chức năng chủ yếu là chức năng đền bù hư ảo. Điều này nói lên rằng, tôn giáo có khả năng bù đắp những thiếu hụt nhất định mà trong hiện thực con người chưa đạt được.

Tôn giáo trong hình thức phát triển của nó bao gồm:

- Niềm tin tôn giáo;

- Tín điều tôn giáo;

- Tổ chức tôn giáo (giáo hội).

Trong đó, niềm tin tôn giáo là cơ sở của ý thức tôn giáo. Giải quyết vấn đề tôn giáo (niềm tin tôn giáo) là một quá trình lâu dài, trên cơ sở phát triển kinh tế - xã hội, khoa học - kỹ thuật và đời sống tinh thần xã hội.

TÓM LƯỢC NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN GHI NHỚ

Trong chương này, anh/chị cần ghi nhớ những vấn đề sau:

1. Ý thức xã hội là một hiện tượng tinh thần, là mặt tinh thần của đời sống xã hội.

2. Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng có nguồn gốc chung là tồn tại xã hội, nhưng hai cấp độ khác nhau về chất trong trình độ phản ánh.

3. Ý thức xã hội vừa mang tính giai cấp vừa mang tính dân tộc và tính nhân loại.

4. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, tính độc lập tương đối của ý thức xã hội.

5. Ý thức chính trị phản ánh những quan hệ kinh tế - xã hội, lợi ích giai cấp, địa vị các giai cấp trong xã hội.

6. Pháp luật thể hiện rõ rệt ý chí, mục đích của giai cấp thống trị.

7. Chức năng cơ bản của ý thức tôn giáo là đền bù hư ảo.

CÂU HỎI SUY LUẬN

Câu hỏi 1: Hãy lý giải tại sao ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội nhưng lại có thể vượt trước tồn tại xã hội? Điều này có mâu thuẫn nhau không?

Gợi ý: Không mâu thuẫn. Cái làm cho ý thức xã hội thường lạc hậu là do bản thân ý thức xã hội là cái phản ánh, cho nên nó bao giờ cũng có sau cái được phản ánh (ở đây là tồn tại xã hội). Trong ý thức xã hội có yếu tố tri thức, nếu tri thức đúng đắn, khoa học nó có thể dự báo được xu hướng vận động, phát triển của sự vật. Do vậy, nó có thể phản ánh vượt trước tồn tại xã hội. Dù ý thức xã hội có phản ánh vượt trước tồn tại xã hội thì nó vẫn bị tồn tại xã hội quy định.

Câu hỏi 2: Hiểu thế nào về luận điểm: ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội? Có thể hiểu phản ánh ở đây như là sự phản ánh của cảm giác không?

Gợi ý: Không nên hiểu phản ánh của ý thức xã hội như sự phản ánh của cảm giác. Bởi lẽ, cùng một tồn tại xã hội như nhau, nhưng ở các giai cấp khác nhau lại có ý thức xã hội không như nhau. Trong chuyên đề vật chất - ý thức chúng ta rõ, đứng trước sự vật khách quan như nhau thì ở mọi người về cơ bản phải có cảm giác giống nhau. Nhưng đối với ý thức xã hội lại không vậy. Điều này chứng tỏ, phải hiểu phản ánh của ý thức xã hội như là thái độ, cách tiếp nhận, phản ứng của các giai cấp trước cùng một tồn tại xã hội. Điều này hoàn toàn đúng, bởi lẽ, các giai cấp khác nhau sẽ có lợi ích khác nhau. Thông qua lăng kính lợi ích mà các giai cấp sẽ có thái độ, cách tiếp nhận, phản ứng khác nhau đối với cùng một tồn tại xã hội.

NHÀ NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG XÃ HỘI

CHƯƠNG XII

NHÀ NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG XÃ HỘI

Mục tiêu

Sau khi học xong chương này anh/chị sẽ nắm được những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về nguồn gốc, bản chất, đặc trưng của nhà nước cũng như bản chất của cách mạng xã hội; đặc điểm của nhà nước vô sản; những điều kiện khách quan và những nhân tố chủ quan của cách mạng xã hội. Trên cơ sở đó, anh/chị có cơ sở thế giới quan, phương pháp luận để hiểu quan điểm của đảng ta về xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói riêng ở Việt Nam hiện nay.

Nội dung

I. NHÀ NƯỚC

1. Nguồn gốc và bản chất nhà nước

a. Nguồn gốc của nhà nước

Nhiều nhà triết học tôn giáo cho nhà nước có nguồn gốc từ thượng đế. Với họ, nhà nước ở trần thế chỉ là sự chuẩn bị cho nhà nước ở trên thượng giới. Các nhà triết học duy tâm khách quan như Platôn, Hêghen cho nhà nước là sản phẩm của ý niệm, của tinh thần thế giới, v.v. Những quan niệm này chưa thực sự khoa học.

Theo triết học Mác-Lênin, nhà nước là sản phẩm trực tiếp của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà.

Nguyên nhân sâu xa của việc xuất hiện nhà nước là do nguyên nhân kinh tế. Chính sự phát triển của kinh tế dẫn đến sự ra đời của giai cấp. Việc xuất hiện chế độ tư hữu đã làm nảy sinh các giai cấp có lợi ích đối lập nhau. Do mâu thuẫn lợi ích, nhất là lợi ích kinh tế các giai cấp đấu tranh với nhau. Sự đấu tranh giữa các giai cấp có nguy cơ huỷ diệt chính xã hội loài người. Để điều này không xảy ra cần một cơ quan quyền lực đặc biệt. Đó chính là nhà nước. Nhà nước đầu tiên trong lịch sử là nhà nước chiếm hữu nô lệ, xuất hiện trong cuộc đấu tranh không thể điều hoà được giữa giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ trong chế độ chiếm hữu nô lệ.

Như vậy, nguồn gốc sâu xa của nhà nước là do kinh tế phát triển, còn nguồn gốc trực tiếp của nhà nước là mâu thuẫn giai cấp và cuộc đấu tranh giai cấp không thể điều hoà được. Điều này cũng chứng tỏ nhà nước có tính lịch sử. Nhà nước chỉ ra đời tồn tại trong một giai đoạn nhất định của sự phát triển xã hội và sẽ mất đi khi cơ sở kinh tế - xã hội của nó không còn.

b. Bản chất của nhà nước

Nhà nước ra đời dường như là đứng ngoài xã hội, làm cho xã hội tồn tại trong vòng trật tự nhất định, nhưng trên thực tế nhà nước là cơ quan thống trị của giai cấp thống trị về kinh tế trong xã hội. Nhà nước là tổ chức quyền lực chính trị của giai cấp thống trị về kinh tế. Vì chỉ giai cấp thống trị về kinh tế mới có đủ điều kiện lập ra và sử dụng bộ máy nhà nước. Cũng nhờ có nhà nước mà giai cấp này mới trở thành giai cấp thống trị về chính trị.

Quan điểm này nói lên bản chất giai cấp của nhà nước, nhà nước bao giờ xét đến cùng cũng là của một giai cấp, giai cấp thống trị về kinh tế và nhờ có sức mạnh đó mà thống trị về chính trị. Do vậy, nhà nước là bộ máy quan trọng nhất trong kiến trúc thượng tầng trong xã hội có giai cấp.

Ngoài bản chất giai cấp là cái sâu sắc nhất, nhà nước còn có bản chất xã hội. Nhà nước về bản chất là bộ máy chuyên chính của giai cấp thống trị về kinh tế. Nhưng nhà nước nhân danh xã hội, nhân danh lợi ích phổ biến, một mặt và trước hết nhà nước phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị, mặt khác nhà nước không thể không thực hiện lợi ích xã hội, đáp ứng lợi ích xã hội. Đây là mâu thuẫn, giải quyết mâu thuẫn này là động lực phát triển của nhà nước. Tuy nhiên nhà nước khi thực hiện lợi ích xã hội vẫn đứng trên lập trường của giai cấp thống trị về kinh tế.

Ý nghĩa phương pháp luận

Cần nhấn mạnh bản chất giai cấp của nhà nước, tránh mơ hồ về một nhà nước nhân dân, nhà nước phúc lợi chung, nhà nước trừu tượng (trừ nhà nước xã hội chủ nghĩa).

Mặt khác, cũng nên tránh tuyệt đối hoá bản chất giai cấp, đối lập tuyệt đối giữa các nhà nước. Bởi lẽ, nhà nước vẫn thực hiện những lợi ích chung nhất định của xã hội nhất định. Tất nhiên khi thực hiện lợi ích chung này, bao giờ nó cũng đứng trên lợi ích của giai cấp thống trị để giải quyết.

2. Đặc trưng cơ bản của nhà nước

a) Nhà nước quản lý dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định

Khác với thị tộc, bộ lạc được hình thành trên cơ sở quan hệ huyết thống, nhà nước hình thành trên cơ sở phân chia dân cư theo lãnh thổ nơi cư trú. Quyền lực nhà nước có hiệu lực với tất cả dân cư sống trên lãnh thổ đó, không phụ thuộc vào huyết thống, dân tộc. Do đó, nhà nước bao giờ cũng có biên giới quốc gia.

b) Nhà nước có một bộ máy quyền lực công cộng mang tính cưỡng chế đối với mọi thành viên trong xã hộ như quân đội, cảnh sát, nhà tù và bộ máy hành chính.

Khác với cơ quan điều hành chung trong thị tộc, bộ lạc, bộ tộc, nhà nước của giai cấp thống trị bao giờ cũng có cơ quan quyền lực chuyên nghiệp. Nhà nước thực hiện quyền lực của mình trên cơ sở sức mạnh cưỡng bức của pháp luật và dùng các thiết chế bạo lực để pháp luật cuả mình được thực thi.

c) Nhà nước hình thành hệ thống thuế khoá để duy trì và tăng cường bộ máy cai trị.

Nhà nước không thể tồn tại nếu không dựa vào thuế khoá, quốc trái và các hình thức bóc lột khác. Đó là chế độ đóng góp có tính chất cưỡng bức để nuôi bộ máy nhà nước. Hệ thống thuế khoá không có trong thị tộc, bộ lạc và bộ tộc. Do vậy, nhà nước của giai cấp bóc lột không chỉ là công cụ trấn áp các giai cấp khác mà còn là công cụ để bóc lột các giai cấp bị áp bức.

3. Chức năng cơ bản của nhà nước

Tuỳ theo góc độ khác nhau, chức năng của nhà nước phân chia khác nhau.

a) Chức năng thống trị chính trị của giai cấp và chức năng xã hội

Chức năng thống trị chính trị của giai cấp - chức năng giai cấp - là chức năng nhà nước làm công cụ chuyên chính của một giai cấp nhằm bảo vệ sự thống trị của giai cấp đó đối với toàn thể xã hội. Thông qua chức năng này mà nhà nước thực hiện việc củng cố cơ sở chính trị - xã hội của mình; thực hiện điều hoà mâu thuẫn giai cấp, lôi kéo các giai cấp khác về phía mình, v.v.

Chức năng xã hội của nhà nước là chức năng nhà nước thực hiện sự quản lý những hoạt động chung vì sự tồn tại của xã hội, như điều hoà các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá tinh thần, duy trì trật tự xã hội, phong tục, tập quán, v.v.

Trong hai chức năng trên, chức năng thống trị chính trị là cơ bản nhất, chi phối chức năng xã hội. Chức năng xã hội phụ thuộc vào chức năng chính trị, phục vụ chức năng chính trị. Giai cấp thống trị phải biết giới hạn kiện toàn cách thực hiện chức năng xã hội trong khuôn khổ lợi ích của giai cấp mình.

b) Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại

Chức năng đối nội của nhà nước thể hiện ở chỗ, nhà nước phải:

- Duy trì sự thống trị giai cấp đối với toàn xã hội, để duy trì trật tự kinh tế, xã hội, chính trị và những trật tự khác trong xã hội.

- Tổ chức quản lý xã hội thông qua pháp luật và sử dụng nhiều phương tiện để xác lập, củng cố tư tưởng, ý chí của giai cấp thống trị, làm cho chúng trở thành chính thống trong xã hội.

Chức năng đối ngoại thể hiện ở chỗ, nhà nước thực hiện quan hệ về mặt nhà nước với các nhà nước khác nhằm bảo vệ biên giới lãnh thổ quốc gia và thực hiện các mối quan hệ để mở rộng quan hệ kinh tế, chính trị, văn hoá, giáo dục với các nước khác nhằm tăng cường sức mạnh của nhà nước về mọi mặt và mở rộng ảnh hưởng của nước mình đối với các nước khác.

Cả hai chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị. Chúng là hai mặt của một thể thống nhất. Tính chất của chức năng đối nội quyết định tính chất của chức năng đối ngoại của nhà nước. Tất nhiên, tính chất và nhu cầu của chức năng đối ngoại ảnh hưởng và tác động mạnh mẽ đến chức năng đối nội.

4. Các kiểu và hình thức nhà nước

Kiểu nhà nước là một khái niệm dùng để chỉ bộ máy thống trị đó thuộc về giai cấp nào, tồn tại trên cơ sở chế độ kinh tế nào, tương ứng với hình thái kinh tế - xã hội nào.

Căn cứ để phân biệt nhà nước này với nhà nước khác là dựa trên quan hệ giai cấp, quan hệ kinh tế, tương ứng với một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội (khi xã hội có giai cấp) có một kiểu nhà nước. Trong lịch sử ứng với các hình thái kinh tế - xã hội đã có các kiểu nhà nước: nhà nước chiếm hữu nô lệ, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa - nhà nước vô sản - một kiểu nhà nước đặc biệt.

Nhà nước chiếm hữu nô lệ là nhà nước của giai cấp chủ nô ở Hy Lạp và La Mã cổ đại với các chính thể quân chủ, cộng hoà, quý tộc và dân chủ. Các hình thức nhà nước này khác nhau về cách thức và cơ chế hoạt động của bộ máy nhà nước còn về bản chất vẫn là nhà nước của giai cấp chủ nô, nhằm thực hiện chuyên chính đối với nô lệ.

Nhà nước phong kiến là nhà nước của giai cấp đại địa chủ, phong kiến, quý tộc. Nhà nước phong kiến cũng có nhiều hình thức khác nhau như quân chủ phân quyền (phổ biến ở phương Tây), quân chủ tập quyền (phổ biến ở Trung Quốc, Ấn Độ cổ đại). Dù tồn tại dưới hình thức nào thì nhà nước phong kiến về bản chất vẫn là nhà nước của giai cấp địa chủ, quý tộc, bảo vệ lợi ích của phong kiến, chuyên chính với nông nô.

Nhà nước tư sản là nhà nước của giai cấp tư sản với hai hình thức chủ yếu là cộng hoà và quân chủ lập hiến. Hình thức cộng hoà lại có những hình thức khác nhau như cộng hoà đại nghị (phổ biến, điển hình); cộng hoà tổng thống. Hình thức của nhà nước tư sản trong thời đại ngày nay rất phong phú nhưng bản chất của nó là không đổi. Nó là công cụ của giai cấp tư sản dùng để áp bức, thống trị giai cấp vô sản và nhân dân lao động khác, bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản.

Mỗi kiểu nhà nước lại có thể tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Hình thức nhà nước là khái niệm dùng để chỉ cách thức tổ chức và phương thức thực hiện quyền lực nhà nước. Nói khác đi, đó là hình thức cầm quyền của giai cấp thống trị. Hình thức nhà nước bị quy định bởi bản chất giai cấp của nhà nước, bởi tương quan lực lượng giữa các giai cấp, bởi cơ cấu xã hội - giai cấp, bởi đặc điểm truyền thống chính trị của đất nước đó, v.v.

Trong các hình thức quân chủ và cộng hoà lại có nhiều hình thức, chẳng hạn: quân chủ chuyên chế và quân chủ lập hiến. Cũng hình thức cộng hoà, nhưng có cộng hoà quý tộc, cộng hoà đại nghị, cộng hoà dân chủ

Nhà nước vô sản là nhà nước kiểu mới

Nhà nước vô sản là kiểu nhà nước đặc biệt, nhà nước không theo nghĩa đen, là “Nhà nước nửa nhà nước”. Tính chất đặc biệt của nhà nước vô sản thể hiện ở chỗ:

- Nhà nước vô sản chỉ tồn tại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa cộng sản. Nó là kiểu nhà nước cuối cùng trong lịch sử loài người.

- Chức năng cơ bản nhất, chủ yếu nhất của nhà nước vô sản không phải là chức năng giai cấp (bạo lực) mà là chức năng tổ chức xây dựng kinh tế - xã hội. Chính vì những tính chất đặc biệt này mà nhà nước vô sản là nhà nước “không còn nguyên nghĩa” nữa.

Nhà nước vô sản dựa trên cơ sở kinh tế là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất là chủ yếu; về chính trị dựa trên liên minh công - nông - trí thức làm nòng cốt cho sự liên minh với mọi tầng lớp nhân dân lao động khác.

Tính giai cấp và tính nhân dân và tính dân tộc thống nhất trong nhà nước vô sản. Nhà nước vô sản là tổ chức, thông qua đó, Đảng của giai cấp công nhân thực hiện vai trò lãnh đạo của mình đối với toàn xã hội. Không có sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, nhà nước đó không giữ được bản chất giai cấp công nhân của mình.

Nhà nước vô sản có thể tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, ví dụ, nhà nước vô sản kiểu Công xã Pari 1871; nhà nước Xô Viết ở nước Nga Xô Viết và sau là ở Liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô Viết (Liên Xô); nhà nước dân chủ nhân dân; nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa, v.v.

Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội sẽ mang lại cho nhà nước vô sản những hình thức mới. Tính đa dạng của nhà nước vô sản tuỳ thuộc vào điều kiện lịch sử của thời điểm xác lập nhà nước ấy; tuỳ thuộc vào tương quan lực lượng giữa các giai cấp và liên minh các giai cấp; tuỳ thuộc vào nhiệm vụ kinh tế - xã hội - chính trị mà nhà nước đó phải thực hiện, v.v. Tuy nhiên, bản chất của nhà nước vô sản chỉ là một: chuyên chính cách mạng của giai cấp công nhân. Đó là nhà nước của dân, do dân và vì dân.

II. CÁCH MẠNG XÃ HỘI

1. Bản chất và vai trò của cách mạng xã hội

a) Khái niệm cách mạng xã hội

Cách mạng xã hội theo nghĩa rộng là sự biến đổi có tính chất bước ngoặt và căn bản về chất trong toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội, là sự thay thế một hình thái kinh tế - xã hội cũ bằng một hình thái kinh tế - xã hội mới cao hơn, tiến bộ hơn.

Theo nghĩa hẹp, cách mạng xã hội là việc lật đổ một chế độ chính trị đã lỗi thời, thiết lập một chế độ chính trị tiến bộ hơn. Dù theo nghĩa nào thì vấn đề giành chính quyền vẫn là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội. Bởi lẽ, chỉ khi giành được chính quyền thì giai cấp cách mạng mới xác lập được nền chuyên chính của mình, mới đảm bảo được quyền lực của mình trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

Như vậy, cách mạng xã hội không phải là bước phát triển bình thường, mà là bước phát triển nhảy vọt, không phải chỉ là nhảy vọt ở một lĩnh vực riêng lẻ nào đó của xã hội, mà là bước nhảy vọt căn bản của toàn xã hội trên tất cả các lĩnh vực.

Cách mạng xã hội khác với đảo chính. Đảo chính là việc giành chính quyền bởi một cá nhân hoặc một nhóm người, không phải là phong trào cách mạng của quần chúng.

Cách mạng xã hội cũng khác với cải cách xã hội. Cải cách xã hội cũng tạo nên những biến đổi về chất nhất định nhưng trong từng lĩnh vực riêng lẻ nhất định và trong khuôn khổ của chế độ xã hội đang tồn tại.

Cách mạng xã hội cũng khác với tiến hoá xã hội. Tiến hoá xã hội cũng là hình thức phát triển của xã hội, nhưng là quá trình diễn ra một cách tuần tự, dần dần với những biến đổi cục bộ trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Tuy nhiên, giữa tiến hoá xã hội và cách mạng xã hội có sự thống nhất biện chứng với nhau. Cách mạng xã hội chỉ trở thành tất yếu khi những tiền đề của nó được tạo ra bởi tiến hoá xã hội. Ngược lại, chính cách mạng xã hội lại mở đường cho tiến hoá xã hội phát triển. Cứ như vậy, xã hội mới vận động, biến đổi, phát triển.

b) Nguyên nhân của cách mạng xã hội

Cách mạng xã hội có nhiều nguyên nhân về các mặt chính trị, kinh tế, xã hội, tư tưởng, nhưng nguyên nhân chủ yếu, nguyên nhân sâu xa là nguyên nhân kinh tế.

Nguyên nhân kinh tế nằm trong phương thức sản xuất của xã hội, đó là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mới với quan hệ sản xuất cũ đã lỗi thời trở thành lực cản đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất, của xã hội.

Trong xã hội có giai cấp mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu hiện về mặt xã hội thành mâu thuẫn giữa giai cấp cách mạng, đại biểu cho lực lượng sản xuất mới tiến bộ và giai cấp thống trị - dùng quyền lực nhà nước bảo vệ bằng mọi giá quan hệ sản xuất lỗi thời - đại biểu cho lực lượng bảo thủ, lạc hậu, phản tiến bộ. Để thay thế quan hệ sản xuất cũ, lỗi thời, lạc hậu bằng quan hệ sản xuất mới, tiến bộ, phù hợp với lực lượng sản xuất, giai cấp cách mạng cần lật đổ giai cấp lạc hậu, bảo thủ giành chính quyền về tay mình để thiết lập quan hệ sản xuất mới. Do vậy, cách mạng xã hội là đỉnh cao của đấu tranh giai cấp.

c) Vai trò của cách mạng xã hội

Vai trò của cách mạng xã hội thể hiện ở chỗ:

Thứ nhất, cách mạng xã hội là bước chuyển biến vĩ đại trong đời sống xã hội về kinh tế - chính trị - văn hoá - tư tưởng. Vì vậy, cách mạng xã hội được Mác coi là đầu tàu của lịch sử.

Thứ hai, chỉ có cách mạng xã hội mới thay thế được quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới, tiến bộ, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển; mới thay thế được hình thái kinh tế - xã hội cũ bằng hình thái kinh tế - xã hội mới cao hơn.

Cách mạng vô sản là một kiểu cách mạng xã hội hơn hẳn về chất so với tất cả các cuộc cách mạng trước đây vì nó xoá bỏ mọi hình thức người nô dịch người, người áp bức người. Các cuộc cách mạng trước đây trong lịch sử chỉ thay thế hình thức nô dịch người này bằng hình thức nô dịch người khác mà thôi. Ví dụ, cách mạng tư sản thay thế hình thức bóc lột địa tô bằng hình thức bóc lột trực tiếp lao động sống của người công nhân.

d) Tính chất, lực lượng và động lực của cách mạng xã hội

Tính chất của một cuộc cách mạng xã hội được xác định bởi nhiệm vụ giải quyết mâu thuẫn kinh tế (mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất) và mâu thuẫn xã hội (giữa giai cấp bị bóc lột với giai cấp bóc lột) tương ứng. Nó phải giải quyết mâu thuẫn giai cấp nào, xoá bỏ chế độ xã hội nào, xác lập chế độ xã hội nào. Ví dụ, cách mạng 1789 ở Pháp được coi là cách mạng tư sản vì: giai cấp tư sản lãnh đạo các tầng lớp, giai cấp lao động khác đánh đổ chế độ phong kiến, thiết lập chế độ tư bản.

Tính chất và nhiệm vụ của cuộc cách mạng quy định lực lượng và động lực của cách mạng. Lực lượng của cách mạng là những giai cấp và tầng lớp nhân dân có lợi ích ít nhiều gắn bó với cách mạng và thúc đẩy cách mạng tiến lên.

Động lực cách mạng xã hội là những giai cấp có lợi ích gắn bó chặt chẽ và lâu dài đối với cách mạng.

Vai trò lãnh đạo của cách mạng xã hội là giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất mới, là giai cấp tiến bộ nhất trong số các giai cấp đang tồn tại. Ví dụ, giai cấp vô sản là giai cấp lãnh đạo trong cách mạng vô sản.

2. Quan hệ giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan của cách mạng xã hội

a) Những điều kiện khách quan của cách mạng xã hội

Muốn có cách mạng nổ ra ngoài nguyên nhân kinh tế (điều kiện kinh tế) cần phải có những điều kiện chính trị - xã hội nhất định đã chín muồi. Tức là những điều kiện mà trong đó mâu thuẫn giai cấp trong xã hội trở nên gay gắt, tạo nên một cuộc khủng hoảng chính trị toàn quốc, làm lay chuyển cả giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Những điều kiện khách quan cần thiết đã chín muồi này tạo nên tình thế cách mạng.

Đó là những điều kiện khách quan, nếu không có những điều kiện khách quan ấy thì cách mạng không thể nổ ra được.

b) Nhân tố chủ quan của cách mạng xã hội

Không có tình thế cách mạng (những điều kiện khách quan) không thể có cách mạng. Để cách mạng có thể nổ ra thắng lợi còn cần có sự chín muồi của những nhân tố chủ quan.

Nhân tố chủ quan không những là ý chí mà còn là sự giác ngộ về mục tiêu và nhiệm vụ cách mạng của giai cấp cách mạng, là năng lực tổ chức, trình độ tổ chức, tập hợp đông đảo quần chúng tiến hành cuộc đấu tranh đưa cách mạng tới thắng lợi.

Thắng lợi của cách mạng tuỳ thuộc vào sự kết hợp các nhân tố chủ quan và điều kiện khách quan.

Trong cách mạng vô sản, sự chín muồi của nhân tố chủ quan, biểu hiện trước hết ở Đảng của giai cấp công nhân. Đảng có khả năng phát hiện tình thế cách mạng để động viên, tập hợp quần chúng kịp thời và biết thúc đẩy quá trình hình thành tình thế cách mạng.

3. Hình thức và phương pháp cách mạng

Vấn đề chính quyền

Vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền. Không giành được chính quyền, các giai cấp cách mạng không thể thực hiện thành công công cuộc cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới.

Do đó, việc chuyển chính quyền nhà nước từ tay giai cấp thống trị lỗi thời sang tay giai cấp cách mạng là điều kiện tiên quyết để giai cấp cách mạng thực hiện mục đích đó. Cách mạng xã hội có thể diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng dù dưới hình thức nào thì vẫn phải thông qua và bằng bạo lực cách mạng. Lịch sử cho thấy, dù cách mạng diễn ra tương đối hoà bình thì vẫn phải dùng bạo lực làm hậu thuẫn, làm điều kiện. Nói khác đi, quy luật chung có tính chất phổ biến cho tất cả mọi cuộc cách mạng phải là cách mạng bạo lực. Nghĩa là giai cấp cách mạng phải dùng bạo lực cách mạng để đập tan bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền về tay mình.

Bạo lực cách mạng là hành động cách mạng của quần chúng dưới sự lãnh đạo của giai cấp cách mạng vượt qua khỏi giới hạn pháp luật của giai cấp thống trị đương thời nhằm lật đổ nhà nước lỗi thời, xác lập nhà nước của giai cấp cách mạng.

Bạo lực cách mạng là quy luật phổ biến, nhưng tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể, nhất là tuỳ theo sự so sánh lực lượng giữa cách mạng và phản cách mạng, nó có thể biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau.

Bạo lực cách mạng, khái quát lại, có hai lực lượng: lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị.

Khẳng định bạo lực cách mạng là tất yếu, phổ biến, điều đó không có nghĩa là chúng ta phủ nhận khả năng giành chính quyền bằng phương pháp hoà bình.

Nhưng để giành chính quyền bằng phương pháp hoà bình, phải có điều kiện:

- Giai cấp thống trị không còn bộ máy bạo lực đáng kể hoặc có bộ máy bạo lực nhưng đã mất hết ý chí chống lại quần chúng cách mạng.

- Lực lượng cách mạng phát triển mạnh, áp đảo kẻ thù. Cần chống lại chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh và chủ nghĩa xét lại về cái gọi là "quá độ hoà bình".

Trong thời đại ngày nay, trước tác động mạnh mẽ của cách mạng khoa học công nghệ, sự biến đổi phức tạp của các trào lưu cách mạng, đặc biệt là sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội, nhiều nhà lý luận tư sản đã bác bỏ lý luận cách mạng xã hội của chủ nghĩa Mác-Lênin. Tuy nhiên, họ không thể phủ nhận được tính quy luật vận động phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là phải thông qua các cuộc cách mạng xã hội.

Chỉ có cách mạng vô sản mới giải quyết được một cách căn bản mâu thuẫn trong xã hội tư bản, mới thay thế được xã hội tư bản bằng xã hội mới cao hơn, xã hội cộng sản chủ nghĩa. Tuy nhiên, đây là nhiệm vụ rất khó khăn và phức tạp.

TÓM LƯỢC NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN GHI NHỚ

Chúc mừng anh/chị đã hoàn thành chương XII. Anh/chị cần ghi nhớ:

1. Nguồn gốc, bản chất của nhà nước.

2. Đặc trưng cơ bản của nhà nước. Kiểu và hình thức của nhà nước.

3. Nhà nước vô sản là nhà nước kiểu mới.

4. Bản chất và nguyên nhân của cách mạng xã hội. So sánh cách mạng xã hội với đảo chính, cải cách xã hội.

5. Bản chất của bạo lực cách mạng.

6. Tính tất yếu khách quan của cách mạng xã hội trong thời đại ngày nay.

CÂU HỎI SUY LUẬN

Câu hỏi 1: Hãy phân tích nguồn gốc, bản chất của nhà nước.

Câu hỏi 2: Vì sao nói, nhà nước vô sản là nhà nước kiểu mới? Liên hệ với việc xây dựng Nhà nước CHXHCN Việt Nam hiện nay.

GIAI CẤP VÀ DÂN TỘC

CHƯƠNG XI

GIAI CẤP VÀ DÂN TỘC

Mục tiêu

Sau khi học xong chương này anh/chị nắm được quan điểm cơ bản của triết học Mác-Lênin về giai cấp và các quan hệ giai cấp, dân tộc; từ đó, hiểu được sự vận dụng lý luận này của Đảng ta vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.

Nội dung

I. NHỮNG HÌNH THỨC CỘNG ĐỒNG NGƯỜI TRONG LỊCH SỬ

1. Những hình thức cộng đồng người trước dân tộc

a. Thị tộc

Thị tộc là cộng đồng người gồm khoảng vài trăm người cùng huyết thống. Thị tộc là một đơn vị sản xuất và là một hình thức tồn tại cơ bản của xã hội nguyên thuỷ. Ngoài những đặc trưng về huyết thống, thị tộc còn có những quan hệ cộng đồng chung về ngôn ngữ, tập quán, tín ngưỡng, văn hoá.

Thị tộc có khu vực cư trú, vùng săn bắt và tên gọi riêng.

Cơ sở kinh tế của thị tộc là quyền sở hữu chung về tư liệu sản xuất và tài sản chung. Mọi thành viên trong thị tộc cùng lao động và cùng hưởng thành quả lao động.

Hội đồng thị tộc lãnh đạo thị tộc. Người đứng đầu thi tộc được gọi là tộc trưởng và được bầu ra để lãnh đạo thị tộc.

b. Bộ lạc

Bộ lạc là một tập hợp dân cư được tạo thành từ nhiều thị tộc có quan hệ huyết thống hoặc quan hệ hôn nhân liên kết với nhau. Nói khác đi, nhiều thị tộc có quan hệ huyết thống hoặc hôn nhân liên kết nhau tạo thành bộ lạc. Thị tộc gốc được gọi là bào tộc.

Bộ lạc có đặc trưng: có cùng ngôn ngữ, phong tục, tập quán, văn hoá, tín ngưỡng và cùng chung sống trên một vùng lãnh thổ (mặc dù chưa bền vững). Bộ lạc có sở hữu cao hơn thị tộc (lãnh thổ, nơi trồng trọt, săn bắt, chăn nuôi, v.v.)

Hội đồng tộc trưởng lãnh đạo bộ lạc.

c. Bộ tộc

Bộ tộc là cộng đồng dân cư hình thành từ sự liên kết nhiều bộ lạc và liên minh các bộ lạc trên cùng cùng một vùng lãnh thổ nhất định tạo thành. Bộ tộc đông hơn bộ lạc. Mỗi bộ tộc có tên gọi riêng và có đặc điểm kinh tế, văn hoá riêng. Khác với thị tộc và bộ lạc, bộ tộc có vùng lãnh thổ tương đối ổn định, dân cư đa dạng và đan xen, đa ngôn ngữ và văn hoá. Ngôn ngữ của bộ lạc nào chiếm vị trí trung tâm của sự giao lưu được coi là ngôn ngữ chung của bộ tộc. Thời kỳ bộ tộc đã xuất hiện chế độ tư hữu, nhà nước đã xuất hiện.

2. Dân tộc

Dân tộc là cộng đồng xã hội - tộc người ổn định bền vững, là sự kết tinh độc đáo các thể cộng đồng về lãnh thổ, về ngôn ngữ, về kinh tế, về văn hóa, tâm lý và tính cách.

Những cộng đồng người được coi là dân tộc có các đặc trưng chủ yếu sau:

Một là, cộng đồng về lãnh thổ, bao gồm chủ quyền về vùng đất, vùng trời, vùng biển, hải đảo, thềm lục địa, v.v. Trong một quốc gia nhiều dân tộc thì lãnh thổ quốc gia gồm lãnh thổ của tất cả các dân tộc thuộc quốc gia ấy hợp thành. Lãnh thổ là chủ quyền không thể chia cắt, là cơ sở hình thành nên tổ quốc của mỗi quốc gia dân tộc.

Hai là, cộng đồng về kinh tế. Cộng đồng chung về kinh tế đảm bảo cho sự tồn tại và thống nhất của mỗi quốc gia dân tộc.

Ba là, cộng đồng về ngôn ngữ. Mỗi dân tộc đều có ngôn ngữ riêng của dân tộc mình, nhưng trong một quốc gia bao giờ cũng có một ngôn ngữ chung thống nhất. Ngôn ngữ được chọn làm ngôn ngữ thống nhất của dân tộc quốc gia bao giờ cũng là sản phẩm và kết quả tất yếu của một quá trình hết sức lâu dài của sự phát triển kinh tế - xã hội. Ví dụ, các dân tộc anh em trên lãnh thổ Việt Nam như người Tày, người Thái, người Nùng, người Mường, người Êđê, đều có ngôn ngữ của dân tộc mình. Nhưng tiếng Kinh (Việt) được coi là ngôn ngữ chung của dân tộc Việt Nam. Một dân tộc có thể dùng các ngôn ngữ khác nhau để giao tiếp nhưng tiếng mẹ đẻ - ngôn ngữ chung của dân tộc, một quốc gia thống nhất là đặc trưng bản chất và là nhân tố kết nối các dân tộc thành một quốc gia có chủ quyền. Ngôn ngữ là nền tảng văn hoá đồng thời còn là di sản văn hoá tinh thần của dân tộc.

Bốn là, cộng đồng về văn hóa, tâm lý, tính cách. Văn hoá là yếu tố đặc biệt trong sự gắn kết cộng đồng dân tộc thống nhất. Đặc trưng chung của văn hoá dân tộc là thống nhất trong tính đa dạng. Văn hoá là động lực phát triển của dân tộc, là công cụ bảo vệ độc lập, chủ quyền của mỗi quốc gia dân tộc. Đấu tranh bảo vệ chủ quyền dân tộc bao gồm đấu tranh chống đồng hoá về văn hoá. Đồng thời, mỗi dân tộc có tâm lý, tính cách riêng. Nó phản ánh những điều kiện sống, điều kiện địa lý, dân cư, văn hoá, v.v.

Bốn cộng đồng này vừa kết dính dân tộc vừa tạo ra động lực để mỗi dân tộc phát triển.

Dân tộc ở châu Âu (Tây Âu) hình thành do sự phát triển tư bản chủ nghĩa. Nhiều quốc gia, đặc biệt là ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ la tinh, do những điều kiện đặc thù, dân tộc hình thành không cùng với chủ nghĩa tư bản, có dân tộc hình thành trước chủ nghĩa tư bản, gắn với điều kiện lịch sử về chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội ở các nước đó.

Dân tộc Việt Nam có quá trình hình thành sớm. Dân tộc Việt Nam hình thành trước chủ nghĩa tư bản, gắn liền với hoàn cảnh đặc thù của ta. Quá trình dựng nước và giữ nước cũng là quá trình hình thành dân tộc Việt Nam. Quá trình chống thiên tai và giặc ngoại xâm đã sớm cố kết con người trên mảnh đất này để hình thành nên dân tộc Việt Nam.

II. GIAI CẤP VÀ ĐẤU TRANH GIAI CẤP

1. Giai cấp

a. Khái niệm giai cấp

C.Mác và Ph.Ăngghen chưa nêu ra một định nghĩa về giai cấp, mà đến Lênin, năm 1919, trong tác phẩm “Sáng kiến vĩ đại” đã nêu ra một định nghĩa về giai cấp: “Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn người to lớn khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người, mà tập đoàn này thì có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế - xã hội nhất định”.

Như vậy, nói giai cấp là nói đến sự khác nhau giữa các tập đoàn người về địa vị trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định. Địa vị khác nhau này được thể hiện ở ba quan hệ xét từ ba mặt trong quá trình sản xuất như sau:

Thứ nhất, khác nhau về quan hệ của họ đối với tư liệu sản xuất (sự khác nhau đó được pháp luật quy định và thừa nhận).

Thứ hai, khác nhau về vai trò của họ trong tổ chức lao động, trong tổ chức quản lý sản xuất.

Thứ ba, khác nhau về phương thức và quy mô thu nhập hay phân phối của cải xã hội.

Ở đây, khác nhau về quan hệ đối với tư liệu sản xuất là sự khác nhau cơ bản nhất. Trong định nghĩa, Lênin chỉ ra thực chất của tình trạng xã hội phân chia giai cấp là do tập đoàn này có thể chiếm đoạt sản phẩm lao động của tập đoàn khác. Trong xã hội có giai cấp, ngoài giai cấp thống trị và giai cấp bị trị (những giai cấp cơ bản của xã hội) còn có các giai cấp, tầng lớp trung gian khác. Bộ phận này không có vị trí cơ bản trong phương thức sản xuất thống trị, nó thường xuyên bị phân hoá. Nhân tố chi phối sự phân hoá này chính là lợi ích. Nghĩa là các giai cấp trung gian, các tầng lớp trung gian ngả về giai cấp nào trong xã hội là do lợi ích của họ chi phối.

Định nghĩa giai cấp của Lênin là một định nghĩa khoa học có giá trị cả về lý luận và thực tiễn. Nó cho ta cơ sở để phân biệt giai cấp với tầng lớp, vì tầng lớp không gắn với sản xuất vật chất. Nó cũng cho ta cơ sở để phân biệt giai cấp với đẳng cấp - hệ thống khép kín được pháp luật quy định và thừa nhận, có tính chất cha truyền con nối.

Việc vận dụng lý luận trên đây để xem xét các giai cấp trong lịch sử cũng cần tránh giản đơn, bởi các quan hệ giai cấp biểu hiện thông qua nhiều hiện tượng phức tạp.

b. Nguồn gốc giai cấp

Triết học Mác-Lênin đã bác bỏ những quan niệm sai lầm cho rằng, giai cấp là những người cùng huyết thống, sở thích, nghề nghiệp, v.v. Sự xuất hiện giai cấp gắn liền với lịch sử phát triển của nền sản xuất vật chất của xã hội.

Nguồn gốc sâu xa của sự ra đời các giai cấp là do sự phát triển của lực lượng sản xuất, còn nguồn gốc trực tiếp của nó là do chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất.

Sự xuất hiện giai cấp diễn ra theo hai con đường:

Thứ nhất, sự phân hóa trong nội bộ công xã thành kẻ giàu, người nghèo; kẻ bóc lột - người bị bóc lột. Đó là do lực lượng sản xuất phát triển, phân công lao động phát triển. Sự phát triển của kinh tế dẫn đến xuất hiện của cải dư thừa trong xã hội. Khi ấy, những người có chức, quyền trong bộ lạc, thị tộc có cơ hội lấy một phần của dư thừa làm của riêng. Chế độ tư hữu ra đời, xuất hiện giai cấp có của và giai cấp không có của, kẻ bóc lột và người bị bóc lột.

Thứ hai, những tù binh của các cuộc chiến tranh không bị giết như trước kia nữa mà được giữ lại làm nô lệ để phục vụ những người giàu có. Những người đứng đầu công xã do có địa vị xã hội thâu tóm sức mạnh kinh tế, ngày càng giầu lên. Tuy nhiên, con đường thứ hai hình thành giai cấp này không phải là phổ biến với tất cả các dân tộc.

c. Kết cấu giai cấp

Kết cấu giai cấp gắn với một phương thức sản xuất nhất định. Mỗi phương thức sản xuất có một kết cấu giai cấp cụ thể phù hợp với nó.

Trong một xã hội, kết cấu giai cấp thường đa dạng do tính đa dạng của chế độ kinh tế và cơ cấu kinh tế quy định.

Xem xét một xã hội cụ thể bao giờ cũng có giai cấp cơ bản và giai cấp không cơ bản:

- Các giai cấp cơ bản là các giai cấp gắn với phương thức sản xuất thống trị trong một xã hội nhất định. Nó là sản phẩm của chế độ kinh tế - xã hội cụ thể. Ví dụ, hai giai cấp cơ bản trong chế độ nô lệ là chủ nô và nô lệ; trong chế độ phong kiến là địa chủ, quý tộc và nông nô; trong chế độ tư bản là công nhân (vô sản) và tư sản.

- Các giai cấp không cơ bản là những giai cấp gắn với những phương thức sản xuất tàn dư (ví dụ, giai cấp nô lệ trong buổi đầu của chủ nghĩa tư bản ở châu Âu và châu Mỹ) hoặc phương thức sản xuất mầm mống sau đó (ví dụ, như giai cấp tư sản và giai cấp công nhân công trường thủ công trong giai đoạn cuối của chủ nghĩa phong kiến).

Ngoài hai giai cấp cơ bản và các giai cấp không cơ bản còn có tầng lớp trung gian là sản phẩm của chính phương thức sản xuất đang thống trị, hoặc là kết quả của quá trình phân hoá xã hội liên tục xảy ra trong bất cứ xã hội nào. Ví dụ, tầng lớp bình dân trong xã hội chiếm hữu nô lệ; các tầng lớp tiểu tư sản thành thị và nông thôn trong xã hội tư bản chủ nghĩa, v.v.

Giai cấp cơ bản và không cơ bản có thể có sự chuyển hóa khi có một phương thức sản xuất mới thay thế một phương thức sản xuất trước nó. Do vậy, kết cấu giai cấp của xã hội luôn mang tính lịch sử, không phải là bất biến.

2. Đấu tranh giai cấp

a. Khái niệm đấu tranh giai cấp

Theo triết học Mác-Lênin, trong xã hội có giai cấp đối kháng nhau tất yếu có đấu tranh giai cấp. V.I.Lênin định nghĩa đấu tranh giai cấp như sau:

“Đấu tranh giai cấp là đấu tranh của một bộ phận dân này, chống một bộ phận khác, cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám. Cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản” (Lênin, Toàn tập, tập 7, Nxb Tiến bộ, M, 1978, tr.237).

Đấu tranh giai cấp thực chất là cuộc đấu tranh giữa các giai cấp có lợi ích cơ bản (lợi ích kinh tế) đối lập nhau không thể điều hoà được. Ví dụ, đấu tranh giữa chủ nộ và nô lệ trong chế độ chiếm hữu nô lệ; đấu tranh giữa vô sản và tư sản trong xã hội tư bản chủ nghĩa, v.v. Đấu tranh giữa nông dân và công nhân (nếu có) trong chủ nghĩa xã hội xét về bản chất không phải là đấu tranh giai cấp, vì lợi ích của công nhân và nông dân về cơ bản là thống nhất với nhau. Do vậy có thể giải quyết bằng con đường thoả hiệp, thoả thuận, đàm phán, v.v.

Đi đôi với đấu tranh giai cấp là liên minh giai cấp. Liên minh giai cấp là một tất yếu trong cuộc đấu tranh giai cấp. Những giai cấp, tầng lớp có lợi ích cơ bản không đối lập nhau, phù hợp nhau liên minh với nhau trong cuộc đấu tranh giai cấp. Thực hiện liên minh giai cấp cũng là đấu tranh giai cấp. Chính vì vậy, trong quá trình của cuộc đấu tranh giai cấp, mỗi giai cấp đều tập hợp những lực lượng, những giai cấp, những tầng lớp khác nhau trong xã hội về phía mình. Cơ sở của sự liên minh này là sự phù hợp về lợi ích, có thể là cơ bản, lâu dài, có thể là không cơ bản và tạm thời.

b. Đấu tranh giai cấp là một trong những động lực phát triển của xã hội có giai cấp

Nguồn gốc của sự phát triển xã hội là do sự phát triển của sản xuất, là sự thay thế các phương thức sản xuất khi lực lượng sản xuất phát triển đến mức mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất lỗi thời. Đấu tranh giai cấp có ý nghĩa là động lực cơ bản của sự phát triển xã hội, nó là phương thức cơ bản để giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Thông qua đấu tranh giai cấp quan hệ sản xuất mới được xác lập phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Trên cơ sở đó thúc đẩy xã hội vận động, phát triển.

Đấu tranh giai cấp là phương tiện, điều kiện chứ không phải là mục đích. Mục đích của đấu tranh giai cấp là làm cho sản xuất phát triển, kinh tế phát triển. Trên cơ sở đó thúc đẩy xã hội phát triển. Bởi lẽ, sự phát triển của kinh tế là nguyên nhân sâu xa của sự phát triển xã hội.

Thông qua đấu tranh giai cấp mà giai cấp cách mạng, lực lượng tiến bộ trưởng thành. Bởi lẽ, trong đấu tranh giai cấp, giai cấp cách mạng phải xoá bỏ cái cũ, cái lạc hậu, bảo thủ đồng thời cải tạo chính bản thân mình.

Thông qua đấu tranh giai cấp mà các lĩnh vực văn hóa, tư tưởng, nghệ thuật, đạo đức, v.v được phát triển. Trên cơ sở đó thúc đẩy xã hội phát triển.

Trong xã hội có giai cấp, đấu tranh giai cấp không phải là động lực duy nhất, mặc dù nó là động lực vô cùng quan trọng, như Mác và Ăngghen nói, nó là đòn bẩy vĩ đại của cuộc cách mạng xã hội hiện đại. Ngoài đấu tranh giai cấp, còn nhiều động lực khác mà vai trò, vị trí của mỗi động lực khác nhau tùy thuộc vào sự phát triển của kinh tế - xã hội ở mỗi giai đoạn. Chẳng hạn, sự phát triển của khoa học, công nghệ, giáo dục, đào tạo, v.v cũng là những động lực thúc đẩy xã hội phát triển.

Đấu tranh giai cấp là quy luật chung của các xã hội có giai cấp. Song quy luật này có những biểu hiện đặc thù trong từng xã hội cụ thể.

Ở Việt Nam hiện nay đấu tranh giai cấp vẫn là một tất yếu khách quan. Bởi lẽ, vẫn còn những lực lượng đi ngược lại lợi ích của nhân dân lao động, của dân tộc và nhà nước ta. Hơn nữa, chúng ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cho nên cuộc đấu tranh giai cấp vẫn là tất yếu.

Thực chất đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay là đấu tranh chống khuynh hướng tự phát tư bản chủ nghĩa và các thế lực thù địch đi ngược lại độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay là phức tạp. Bởi lẽ, đối tượng của cuộc đấu tranh không trực tiếp, rõ ràng như trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Kẻ thù của cách mạng ẩn dấu đằng sau các vấn đề kinh tế, văn hoá, v.v. Đã vậy, hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô (cũ) và đông Âu tạm thời suy thoái. Một bộ phận cán bộ, đảng viên thoái hoá, biến chất. Kẻ thù thì dùng mọi thủ đoạn, đặc biệt là “diễn biến hoà bình để chống phá cách mạng”.

Nội dung chủ yếu của cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay là không ngừng củng cố chính quyền nhà nước của dân, do dân, vì dân; là "thực hiện thắng lợi công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng chủ nghĩa xã hội, khắc phục tình trạng nước nghèo, thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức bất công, đấu tranh ngăn chặn những hành động tiêu cực, sai trái. Đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc"; giải quyết tốt vấn đề tôn giáo, dân tộc; xây dựng thành công nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Hình thức đấu tranh đa dạng, tổng hợp.

III. QUAN HỆ GIAI CẤP - DÂN TỘC

1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin

a. Vai trò của giai cấp đối với dân tộc:

Trong quan hệ biện chứng giữa giai cấp và dân tộc thì quan hệ giai cấp xét đến cùng là nhân tố có vai trò quyết định đối với sự hình thành dân tộc, tính chất dân tộc, xu hướng phát triển của dân tộc.

Áp bức giai cấp là nguyên nhân căn bản, sâu xa của áp bức dân tộc. Dân tộc này áp bức, thống trị dân tộc khác về thực chất là giai cấp thống trị dân tộc này áp bức, bóc lột dân tộc khác.

Nhân tố giai cấp là nhân tố cơ bản, hàng đầu trong phong trào giải phóng dân tộc. Điều này thể hiện ở chỗ, giai cấp nào lãnh đạo phong trào, những giai cấp nào là nòng cốt của phong trào, liên minh với giai cấp nào. Những điều này có ảnh hưởng mang tính quyết định đối với thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc.

b. Vai trò của dân tộc đối với giai cấp:

Sự tác động của dân tộc đối với giai cấp thể hiện, dân tộc là địa bàn trực tiếp của các quá trình kinh tế - xã hội, là cơ sở của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân. Các cuộc cách mạng xã hội và trình độ phát triển dân tộc có vai trò to lớn đối với trình độ phát triển giai cấp.

Vấn đề dân tộc là vấn đề cơ bản, hàng đầu của cách mạng vô sản. Vấn đề dân tộc chỉ được nhận thức và giải quyết đúng đắn trên lập trường của giai cấp công nhân.

Phong trào giải phóng dân tộc ảnh hưởng to lớn đến đấu tranh giai cấp.

Trong lịch sử, khi giai cấp đang lên, đại biểu cho sự phát triển của lực lượng sản xuất, cho sự tiến hóa của xã hội thì nó cũng là giai cấp đại biểu cho lợi ích chân chính của dân tộc. Giai cấp đó có khả năng nắm ngọn cờ dân tộc để tập hợp lực lượng, chống giai cấp thống trị phản động và chống bọn áp bức thuộc các dân tộc khác.

Khi giai cấp thống trị đã trở thành lỗi thời và phản động thì lợi ích giai cấp của nó mâu thuẫn gay gắt với lợi ích dân tộc. Nó sẵn sàng vứt bỏ lợi ích dân tộc để bảo vệ lợi ích giai cấp. Trong cuộc đấu tranh Pháp - Phổ, giai cấp tư sản Pháp khi ấy đã sẵn sàng bán đứng lợi ích dân tộc Pháp để bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản.

Đảng ta giương cao ngọn cờ chủ nghĩa yêu nước và ngọn cờ chủ nghĩa xã hội, thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong công cuộc đổi mới hiện nay chính là sự kết hợp hài hòa giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp, thúc đẩy tiến bộ xã hội.


2. Vận dụng sáng tạo quan hệ giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh

Hồ Chí Minh là người vận dụng hết sức tài tình quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về quan hệ giai cấp - dân tộc - nhân loại. Người coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam là góp phần vào thắng lợi của cách mạng thế giới.

Giải phóng giai cấp gắn liền với giải phóng dân tộc, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nếu dân tộc không được độc lập thì giai cấp không thể có tự do. Dân tộc không độc lập thì không thể xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đảm bảo chắc chắn cho độc lập dân tộc.

Phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là của tất cả các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam. Chỉ trên cơ sở nỗ lực, cố gắng của toàn thể các dân tộc, chúng ta mới xây dựng được chủ nghĩa xã hội.

Giải quyết đúng đắn quan hệ lợi ích dân tộc và quốc tế, giữa mở rộng giao lưu với giữ gìn độc lập dân tộc. Lợi ích dân tộc chân chính và lợi ích quốc tế của giai cấp công nhân và nhân dân lao động không đối lập nhau.

Kiên quyết chống chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và chống chủ nghĩa sô vanh nước lớn, chủ nghĩa bá quyền áp đặt cho các dân tộc cái trật tự thế giới phục vụ cho lợi ích ích kỷ của một nước hay một nhóm nước có ưu thế về kinh tế và quân sự.

TÓM LƯỢC NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN GHI NHỚ

Trong chương XI anh/chị cần ghi nhớ những điểm sau:

1. Thực chất quan hệ giai cấp là tập đoàn người này chiếm đoạt lao động của tập đoàn người khác.

2. Đấu tranh giai cấp là đấu tranh giữa những giai cấp, tập đoàn xã hội có lợi ích cơ bản đối lập nhau không thể điều hoà được, đấu tranh giai cấp là một trong những động lực cơ bản của xã hội có giai cấp.

3. Quan hệ giữa lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc. Liên hệ với tình hình thực tế ở Việt Nam. Ở nước ta lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là phù hợp với lợi ích dân tộc.

Chúc anh/chị thành công!

CÂU HỎI SUY LUẬN

Câu hỏi 1: Thực chất quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp là gì?

Câu hỏi 2: Anh/chị hãy phân tích mối quan hệ giữa lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc, liên hệ với tình hình thực tế ở Việt Nam?